Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm máy tính xách tay) số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 613/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 585/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn C (Tên gọi khác: Không có), sinh năm: 1993 tại Quảng Trị; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: K5/11C, khu phố 3, phường B, thành phố B, tỉnh Đ. Chổ ở hiện nay: Tổ 16, ấp An Hoà, phường Hoá An, thành phố B Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1968 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1967; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em. Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Ngô Thị S, sinh năm 1994, có con tên Ngô Minh Quang, sinh năm 2014. Tiền án: 01 tiền án: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án số 302/HSST ngày 17/5/2016. Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 03/10/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B - Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Trịnh Thị Mỹ H, sinh năm 1977 – Có đơn xin vắng mặt. Địa chỉ: Nhà số 63/13A, tổ 18, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:

Bùi Văn C là đối tượng đã có 01 tiền án về tội “Cướp tài sản”. Để có tiền tiêu xài, C đi tìm xem ai sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khoảng 19 giờ ngày 02/10/2021, khi đi ngang qua nhà chị Trịnh Thị Mỹ H, sinh năm 1977, ở tại nhà số 63/13A, tổ 18, khu phố A, phường H, thành phố B thì C nhìn thấy cửa nhà trước mở, không có người trông coi, nên C đã đột nhập vào nhà thì phát hiện có 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP màu đen, đang để trên bàn nên đã nhanh chóng lấy trộm rồi tẩu thoát. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi C đang mang máy tính xách tay để tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an phường Hoá An, phát hiện bắt giữ lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý. Tại Cơ quan điều tra C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

- Vật chứng vụ án gồm:

+ Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP màu đen cho chị H là chủ sở hữu.

+ 01 USB lưu lại hình ảnh diễn biến sự việc đối tượng trộm cắp tại nhà chị H (kèm lưu hồ sơ).

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 405/KL-HĐĐGTS, ngày 05/10/2021, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “ 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP có trị giá tài sản là 2.200.000 đồng (Hai triệu hai trăm nghìn đồng)”.

- Về dân sự: chị Trịnh Thị Mỹ H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 04/CT-VKSBH ngày 10 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Bùi Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức Đ hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn C từ 10 tháng đến 12 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 19 giờ ngày 02/10/2021, tại nhà số 63/13A, tổ 18, khu phố A, phường H, thành phố B, Bùi Văn C đã có hành vi trộm cắp của chị Trịnh Thị Mỹ H 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP có giá trị là 2.200.000 đồng (Hai triệu hai trăm nghìn đồng) thì bị phát hiện xử lý.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản ghi hình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt Đ quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, 01 tiền án, bị cáo không lấy các lần bị xử phạt trước làm bài học răn đe, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội, bị cáo lười lao động mà bất chấp phạm tội, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm vào tình tiết tái phạm quy định tại khoản điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà bị cáo khai có ông nội là liệt sĩ nhưng bị cáo không có chứng cứ cung cấp cho Hội đồng xét xử nên không có cơ sở để xem xét cho bị cáo.

[7] Về phần dân sự: Bị hại chị Trịnh Thị Mỹ H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không ra xem xét giải quyết.

[8] Về vấn đề khác: Vật chứng đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Đ chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn C 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2021.

2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ Đ tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm máy tính xách tay) số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về