Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm chó) số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CG – TỈNH L

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 07/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân huyện CG, xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số 101/2022/TLST - HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2022/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/QĐST-HS, ngày 09/01/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên Lê C B, sinh năm: 1989.

Nơi thường trú: khu phố Xóm Gò 1, thị trấn Tân Hòa, huyện GC Đông, tỉnh TG; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ H vấn: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê C Hùng (đã chết) và bà Huỳnh Thị Kính; Bản thân có vợ tên Huỳnh Thị Cẩm T1, có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2021; Tiền án – tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 21/01/2011, bị Tòa án nhân dân huyện GC Đông, tỉnh TG xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên Nguyễn Văn Ph, sinh năm: 1981.

Tên gọi khác: Đen.

Nơi thường trú: 86 Khu phố 5, Phường 4, thị xã GC, tỉnh TG; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ H vấn: 06/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Hải và bà Nguyễn Thị Hà (đã chết); Bản thân có vợ (đã ly hôn), hiện chung sống như với chồng với Nguyễn Thị Kim Thanh, có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án: theo Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2006/HSST, ngày 27/3/2006, của Tòa án nhân dân huyện GC Tây, tỉnh TG xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến nay chưa chấp hành án phí, chưa xóa án tích; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 01/8/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh TG xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, đã xóa án tích; Ngày 25/01/2008, bị Tòa án nhân dân huyện GC Tây, tỉnh TG xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích; Ngày 03/9/2014, bị UBND huyện GC Tây, tỉnh TG ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sản xuất V khí thô sơ mà không có phép (súng bắn tên có hệ thống B điện ắc quy) và tham gia trộm cắp chó; Ngày 16/01/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh TG xử phạt 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Bào chữa cho bị cáo Lê C B: Ông Lê Thanh S – Luật sư – Văn phòng luật sư N, đoàn luật sư tỉnh Ninh Th (vắng mặt có đơn đề ngày 06/02/2023).

Người bị hại:

1/ Huỳnh Tấn Anh V, sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Kế Mỹ, xã Mỹ L1, huyện CG, tỉnh L.

2/ Nguyễn Văn H, sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố Hòa Th 2, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh L.

3/ Lê Văn Th, sinh năm: 1960 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố Hòa Th 2, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh L.

4/ Lê Văn Th1, sinh năm: 1965 (vắng mặt).

Cư trú: Ấp 3, xã L, huyện CG, tỉnh L.

5/ Thiều Quang L1, sinh năm: 1996 (vắng mặt). Cư trú: ấp Phú Ân, xã Ph Lý, huyện CG, tỉnh L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Trần C Nhã, sinh năm: 1978 (vắng mặt).

Cư trú: Ấp 7, xã Tân Ph, huyện GC Đông, tỉnh TG.

2/ Huỳnh Thị Cẩm T1, sinh năm: 1997 (có mặt).

Cư trú: khu phố Xóm Gò 1, thị trấn Tân Hòa, huyện GC Đông, tỉnh TG.

3/ Nguyễn Văn V, sinh năm: 1997 (vắng mặt).

Cư trú: 86 Khu phố 5, Phường 4, thị xã GC, tỉnh TG.

Người chứng kiến:

1/ Nguyễn Tấn C, sinh năm: 1984 (vắng mặt).

Cư trú: Khu phố 3, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh L.

2/ Nguyễn Phương D, sinh năm: 1995 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Vĩnh Ph, xã Ph Lý, huyện CG, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian vào ngày 15/5/2022 và ngày 05/6/2022, Lê C B đã cùng Nguyễn Văn Ph và đối tượng Ba Ke (không rõ lai lịch) thực hiện 02 vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện CG, tỉnh L và huyện B Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, cụ thể:

Vụ thứ nhất : Khoảng 17 giờ ngày 14/5/2022, Nguyễn Văn Ph và Lê C B gặp nhau tại quán cà phê ở thị xã GC, tỉnh TG thì Ph rủ B đi bắt trộm chó để lấy tiền tiêu xài và B đồng ý. Đến 01 giờ ngày 15/5/2022, B điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter, BS: 63B7-X màu đen-tím đến đầu hẻm nhà Ph ở thị xã GC để rước Ph. Lúc này, Ph mang theo bộ dụng cụ để bắt trộm chó gồm: 01 B ắc quy, 01 cây súng tự chế, 01 bộ biến điện, bao vải và băng keo. B và Ph phân C: B điều khiển xe mô tô, Ph ngồi sau cầm súng điện tự chế (báng bằng kim loại, mũi tên bằng nan hoa đấu với dây gắn vào B kích điện), khi gặp chó B sẽ điều khiển xe áp sát để Ph ngồi sau dùng súng điện tự chế bắn chó, sử dụng băng keo buộc mõm chó bỏ vào bao về bán cho các lò mổ, tiền bán chó chia đôi. Sau khi chuẩn bị dụng cụ, B điều khiển xe mô tô chở Ph trên trục đường Quốc lộ 50 theo hướng từ thị xã GC, tỉnh TG đến huyện CG, tỉnh L để tìm chó bắt trộm. Đến 01 giờ 30 phút cùng ngày, khi B điều khiển xe qua cầu Mồng Gà thuộc thị trấn CG, huyện CG khoảng 100m thì phát hiện 01 con chó lông màu vàng, trọng lượng 13kg của anh Huỳnh Tấn Anh V đang đứng trước sân nhà nên B điều khiển chạy đến để Ph ngồi sau dùng súng điện tự chế bắn, dán mõm, trói chân và bắt con chó bỏ vào bao vải rồi mang lên baga xe, sau đó đi tiếp 400m thì phát hiện 01 con chó lông màu vàng, trọng lượng 13kg của anh Nguyễn Văn H đang đứng trước sân, B cho xe chạy chậm lại để Ph ngồi sau dùng súng bắn và bắt chó bỏ vào bao để lên xe. Cả hai tiếp tục theo đường Quốc lộ 50 về thị trấn CG thì phát hiện 01 con chó lông xù màu trắng, trọng lượng 09kg của anh Lê Văn Th đang đứng trước sân nhà nên cả hai bắn trộm, bỏ vào bao vải, đến vòng xoay tuyến tránh thì phát hiện thêm 01 con chó lông màu đen, trọng lượng 10,5kg của anh Lê Văn Th1 đang đứng trước sạp trái cây nên cả hai tiếp tục bắn trộm, bỏ vào bao vải. B tiếp tục điều khiển xe chở Ph vào các con hẻm trong nội ô thị trấn CG thì bắt trộm thêm 02 con chó, không xác định được chủ sở hữu, mỗi con có trọng lượng khoảng 10kg. Sau đó, B chở Ph cùng xác 06 con chó vừa trộm được trên đường Quốc lộ 50 hướng về Tp. Hồ Chí Minh để tìm nơi tiêu thụ. Trên đường đi, B và Ph bị lực lượng tuần tra phát hiện, truy đuổi nhưng B trốn thoát, còn Ph bị bắt giữ cùng tang vật là 06 xác chó đã bắt trộm. Tại Cơ quan C an, Ph đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản số: 32/KLĐG ngày 16/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu đen, trọng lượng 10,5kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 874.900 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 33/KLĐG ngày 16/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 13kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 1.083.300 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 34/KLĐG ngày 16/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 13kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết) Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 1.083.300 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 35/KLĐG ngày 15/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu trắng, trọng lượng 09kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 749.900 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 36/KLĐG ngày 15/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 11kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 916.600 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 37/KLĐG ngày 15/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) con chó nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 14kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá 1.166.600 đồng.

Tổng giá trị 06 con chó mà Ph và B đã bắt trộm vào ngày 15/5/2022 theo Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG là 5.874.600 đồng (Năm triệu tám trăm bảy mươi bốn nghìn sáu trăm đồng).

Vụ thứ hai : Khoảng 11 giờ ngày 05/6/2022, Lê C B và đối tượng Ba Ke gặp nhau tại quán cà phê võng ở xã Tân Kiên, huyện B Chánh, Tp. Hồ Chí Minh thì Ba Ke rủ B đi bắt trộm chó kiếm tiền tiêu xài và B đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, B điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter, màu đen-tím, gắn biển sổ giả: 51L1- X đến quán cà phê để rước Ba Ke. Lúc này, Ba Ke mang theo bộ dụng cụ để bắt trộm chó gồm: 01 B ắc quy, 01 cây súng tự chế và 01 bộ biến điện, bao vải và băng keo. B và Ba Ke phân C: B điều khiển xe mô tô, Ba Ke ngồi sau cầm súng điện tự chế, khi gặp chó B sẽ điều khiển xe áp sát để Ba Ke dùng súng điện tự chế bắn chó, sử dụng băng keo buộc mõm chó bỏ vào bao về bán cho các lò mổ, tiền bán chó chia đôi. Sau khi chuẩn bị dụng cụ, B điều khiển xe mô tô chở Ba Ke chạy vòng quanh các xã của huyện B Chánh, Tp. Hồ Chí Minh bắt trộm được 06 con chó của người dân. B tiếp tục điều khiển xe chở Ba Ke theo đường liên huyện đến ấp Phú Ân, xã Ph Lý, huyện CG thì phát hiện 01 con chó lông màu đen của anh Thiều Quang L1 đang đứng bên đường nên B điều khiển xe chạy đến để Ba Ke ngồi sau dùng súng điện bắn và bắt chó bỏ vào bao vải để lên xe. Sau đó, cả hai tiếp tục đi vòng quanh xã Ph Lý để tìm chó bắt trộm nhưng không có, nên đi theo đường tỉnh 826 hướng từ Cầu Tràm về Tp. Hồ Chí Minh để tìm nơi tiêu thụ. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực Ngã tư Ph Lý thuộc xã Ph Lý, huyện CG thì bị lực lượng tuần tra phát hiện, truy đuổi nhưng cả hai không chấp hành mà tăng ga bỏ chạy. Sau đó, B đã bị bắt giữ cùng tang vật là 05 xác chó đã bắt trộm, còn 02 xác chó bị rơi trong quá trình truy đuổi không tìm thấy. Riêng đối tượng Ba Ke đã bỏ trốn. Tại Cơ quan C an, B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản số 46/KLĐG ngày 17/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định:

- 01 (một) con chó đực nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 17kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá: 1.416.000 đồng;

- 01 (một) con chó đực nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 12,5kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi được, trị giá: 1.041.000 đồng;

- 01 (một) con chó đực nhà nuôi, lông màu đen, trọng lượng 8kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi, trị giá: 666.000 đồng;

- 01 (một) con chó đực nhà nuôi, lông màu đen, trọng lượng 10kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi, trị giá: 833.000 đồng;

- 01 (một) con chó cái nhà nuôi, lông màu vàng, trọng lượng 14,5kg (trước khi bị bắn bằng súng điện chó vẫn sống B thường, sau khi bị bắn bằng súng điện chó đã chết). Tài sản (xác vật nuôi) đã thu hồi, trị giá: 1.208.000 đồng.

Tổng giá trị của tài sản trên là: 5.164.000 đồng (Năm triệu một trăm sáu mươi bốn ngàn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 114/CT-VKSCG ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố hai bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền C tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê C B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Văn Ph từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với hai bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ dụng cụ để bắt trộm chó gồm: 01 súng bắn điện tự chế bằng gỗ, cán dài 10cm, thân súng dài 33cm, 01 B ắc quy hiệu Globe màu cam kèm phích cắm, 01 B kích điện được dán băng keo xanh kèm theo 01 (một) dây điện màu đỏ, dài 5m; 01 (một) T1i đeo màu đen có quai xách, 02 (hai) cuộn băng keo màu xanh và 01 (một) súng bắn điện tự chế (thân bằng gỗ dài 40cm, mũi bằng gỗ dài 40cm có gắn 02 mũi kim loại bằng sắt chọn dài 07cm), 05m dây điện;

Đối với: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu đen-tím (không biển số) là tài sản hợp pháp của Trần C Nhã, do B tự ý lấy xe để phạm tội nên Cơ quan CSĐT đã xử lý trả lại cho anh Nhã. Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 105, màu đen (đã qua sử dụng) của bị cáo B không liên quan đến vụ án, Cơ quan CSĐT đã xử lý trả lại cho bị cáo B. Đối với biển số xe: 51L1-X, B khai nhặt được ở bãi rác và gắn vào xe mô tô Exciter để tránh bị phát hiện, nên C an huyện CG tiếp tục tạm giữ để xác minh. Đối với số tiền anh Nguyễn Văn V (là anh bị cáo Ph) nộp 6.000.000 đồng và chị Huỳnh Thị Cẩm T1 (vợ bị cáo B) nộp 5.000.000 đồng để bồi thường cho các bị hại, Cơ quan CSĐT bồi thường cho các bị hại xong, nên không đề cập. Đối với xác 06 cá thể chó được tạm giữ vào ngày 15/5/2022 và xác 05 cá thể chó được tạm giữ vào ngày 06/6/2022, do các bị hại không yêu cầu nhận lại, đã phân hủy nên cơ quan CSĐT đã tiêu hủy.

Về dân sự: các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Cẩm T1 không yêu cầu, đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa luật sư Lê Thanh S vắng mặt, thư ký phiên tòa C bố bài bào chữa: bị cáo B phạm tội do bị rủ rê, quá trình điều tra đã Th1 khẩn khai báo và thực hiện việc bồi thường thiệt hại, hiện là lao động D nhất trong gia đình, nuôi vợ và con nhỏ, hoàn cảnh cuộc sống khó khăn, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo B.

Hai bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt không có ý kiến tranh luận.

Hai bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo B đã ăn năn hối cải, bị cáo Ph xin giảm nhẹ hình phạt.

Bài bào chữa cho bị cáo B của luật sư S và lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên được Hội đồng xét xử ghi nhận và xem xét trong quá trình nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra C an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào ngày 15/5/2022, Lê C B đã cùng Nguyễn Văn Ph thực hiện 01 vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện CG, tỉnh L. Cụ thể: rạng sáng ngày 15/5/2022, Ph và B liên tục bắt trộm 06 con chó của người dân trên địa bàn thị trấn CG, huyện CG với tổng giá trị tài sản được định giá là 5.874.600 đồng.

[3] Vào khoảng 22 giờ ngày 05/6/2022, Lê C B cùng đối tượng Ba Ke liên tục bắt trộm 06 con chó của người dân trên địa bàn huyện B Chánh, Tp. Hồ Chí Minh và 01 con chó của anh Thiều Quang L1 ở xã Ph Lý, huyện CG, với tổng giá trị tài sản là 05 xác chó thu hồi được, được định giá là 5.164.000 đồng.

Giá trị tài sản hai bị cáo chiếm đọat của mỗi lần đều trên 2.000.000 đồng (Ph 01 lần, B 02 lần) và dưới 50.000.000 đồng. Hành vi trên của hai bị cáo cấu Th1 tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Việc hai bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 15/5/2022, tuy có bàn bạc, nhưng không cấu kết chặt chẽ nên không thuộc trường hợp định khung hình phạt là phạm tội có tổ chức.

[4] Hành vi phạm tội của hai bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Hai bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Do đó hành vi phạm tội của hai bị cáo cần phải được xử lý thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo: Đối với bị cáo B phạm tội 02 lần và mỗi lần trộm cắp giá trị tài sản đều trên 2.000.000 đồng, đủ định lượng, nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Ph, có 01 tiền án theo Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2006/HSST, ngày 27/3/2006 của Tòa án nhân dân huyện GC Tây, tỉnh TG xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến nay chưa chấp hành án phí, chưa xóa án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo: hai bị cáo phạm tội nhưng đã tác động gia đình tự nguyện nộp số tiền 11.000.000 đồng, nhằm bồi thường, khắc phục hậu quả; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Th1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra xét thấy hai bị cáo là lao động chính trong gia đình, đều có con còn nhỏ, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Trong vụ án cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của từng bị cáo khi lượng hình: về vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của hai bị cáo là như nhau đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nhưng bị cáo Ph là người rủ rê (trong lần trộm ngày 15/5/2022). Hai bị cáo đều có nhân thân xấu, cụ thể:

[7.1] Bị cáo B: theo Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2011/HSST, ngày 21/01/2011, của Tòa án nhân dân huyện GC Đông, tỉnh TG xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích [7.2] Bị cáo Ph: Ngày 01/8/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh TG xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, đã xóa án tích; Ngày 25/01/2008, bị Tòa án nhân dân huyện GC Tây, tỉnh TG xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích; Ngày 03/9/2014, bị UBND huyện GC Tây, tỉnh TG ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sản xuất V khí thô sơ mà không có phép (súng bắn tên có hệ thống B điện ắc quy) và tham gia trộm cắp chó; Ngày 16/01/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh TG xử phạt 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích [8] Xét thấy cần cách ly hai bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục hai bị cáo trở Th1 người có ích cho xã hội. Xét thấy hai bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hiện đang bị tạm giam và áp dụng hình phạt tù cũng đủ răn đe, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với hai bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[9] Đối với đối tượng Ba Ke, qua xác minh tại địa bàn huyện B Chánh, không có người như miêu tả của bị cáo B nên chưa có cơ sở xử lý mà tiếp tục tách ra để xác minh, xử lý sau. Đối với anh Trần C Nhã là chủ xe mô tô Yahama Exciter, BS: 63B7- X mà bị cáo B dùng làm phương tiện để trộm cắp tài sản. Anh Nhã cho B mượn xe làm phương tiện đi lại và không biết B dùng xe vào việc phạm tội, nên không xem xét xử lý.

[10] Về tang vật thu giữ:

[10.1] Đối với 01 (một) bộ dụng cụ để bắt trộm chó gồm: 01 súng bắn điện tự chế bằng gỗ, cán dài 10cm, thân súng dài 33cm, 01 B ắc quy hiệu Globe màu cam kèm phích cắm, 01 B kích điện được dán băng keo xanh kèm theo 01 (một) dây điện màu đỏ, dài 5m; 01 (một) T1i đeo màu đen có quai xách, 02 (hai) cuộn băng keo màu xanh và 01 (một) súng bắn điện tự chế (thân bằng gỗ dài 40cm, mũi bằng gỗ dài 40cm có gắn 02 mũi kim loại bằng sắt chọn dài 07cm), 05m dây điện. Xét thấy giá trị sử dụng không lớn, nên tịch thu tiêu hủy, là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

[10.2] Đối với: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu đen-tím là tài sản hợp pháp của Trần C Nhã, anh Nhã cho B mượn để làm phương tiện đi lại, việc B tự ý lấy xe để thực hiện hành vi phạm tội anh Nhã không biết, nên Cơ quan CSĐT đã trả lại xe cho anh Nhã, là phù hợp. Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 105, màu đen (đã qua sử dụng) của bị cáo B không liên quan đến vụ án, Cơ quan CSĐT đã xử lý trả lại cho bị cáo B, là phù hợp.

[10.3] Đối với biển số xe: 51L1-X, B khai nhặt được ở bãi rác và gắn vào xe mô tô Exciter để tránh bị phát hiện, nên C an huyện CG tiếp tục tạm giữ để xác minh.

[10.4] Đối với xác 06 cá thể chó được tạm giữ vào ngày 15/5/2022 và xác 05 cá thể chó được tạm giữ vào ngày 06/6/2022, do các bị hại không yêu cầu nhận lại và đã phân hủy nên cơ quan CSĐT đã tiêu hủy.

[11] Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra, anh Nguyễn Văn V (là anh bị cáo Ph) nộp 6.000.000 đồng và chị Huỳnh Thị Cẩm T1 (vợ bị cáo B) nộp 5.000.000 đồng để bồi thường cho các bị hại, Cơ quan CSĐT đã bồi thường cho các bị hại xong. Cụ thể bồi thường cho Lê Văn Th, Lê Văn Th1, Nguyễn Văn H, Huỳnh Tấn Anh V mỗi người số tiền 2.500.000 đồng và bồi thường cho Thiều Quang L1 số tiền 1.000.000 đồng. Tại phiên tòa cả 05 người bị hại vắng mặt và đều có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vụ án vắng mặt, các bị hại cũng không yêu cầu bồi thường (bút lục số 210 đến 214), nên không xem xét. Anh V tại phiên tòa vắng mặt, nhưng theo hồ sơ thể hiện không có yêu cầu gì về số tiền đã nộp, chị T1, tại phiên tòa không yêu cầu gì về số tiền đã nộp để bồi thường cho những người bị hại, nên cũng không xem xét.

[12] Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê C B và Nguyễn Văn Ph cùng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê C B 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/6/2022 Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn Ph 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 18/5/2022.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam hai bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (07/02/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tang vật:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ dụng cụ để bắt trộm chó gồm: 01 súng bắn điện tự chế bằng gỗ, cán dài 10cm, thân súng dài 33cm, 01 B ắc quy hiệu Globe màu cam kèm phích cắm, 01 B kích điện được dán băng keo xanh kèm theo 01 (một) dây điện màu đỏ, dài 5m; 01 (một) T1i đeo màu đen có quai xách, 02 (hai) cuộn băng keo màu xanh và 01 (một) súng bắn điện tự chế (thân bằng gỗ dài 40cm, mũi bằng gỗ dài 40cm có gắn 02 mũi kim loại bằng sắt chọn dài 07cm), 05m dây điện.

Hiện vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện CG đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 89/QĐ-VKSCG, ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG.

Về án phí: mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm C khai báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm chó) số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Ngày 15/5/2022, B cùng Ph bắt trộm 6 con chó của người dân tại thị trấn CG với tổng giá trị 5.874.600 đồng. Ngày 5/6/2022, B cùng đối tượng Ba Ke bắt trộm 6 con chó tại huyện B Chánh và 1 con chó tại xã Ph Lý với tổng giá trị 5.164.000 đồng.

Tòa nhận định hành vi của hai bị cáo cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Xét tình tiết tăng nặng là B phạm tội 2 lần và Ph tái phạm. Tình tiết giảm nhẹ là hai bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đều là lao động chính trong gia đình có con nhỏ.

Tòa tuyên phạt B 1 năm tù, Ph 1 năm 3 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy tang vật là dụng cụ bắt trộm chó. Về trách nhiệm dân sự, gia đình hai bị cáo đã bồi thường cho các bị hại, không xem xét thêm. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí.