TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 95/2022/HS-ST NGÀY 18/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh H1 (tên gọi khác: H1 Rabber), sinh năm 1995; Nơi cư trú: Ấp 10, xã Lương H, huyện B, Long An; Nghề nghiệp: không; Giới tính: nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Nguyễn Văn K và bà Phạm Thị Ngọc Tr; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền sự: không;
- Tiền án: Tại Bản án số: 22/HS-ST ngày 25/3/2019, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An xử phạt Nguyễn Thanh H1 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/02/2022, chưa được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2022 cho đến nay (có mặt).
- Bị hại: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 (vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp Mỹ T, xã Thiện Tr, huyện Cái B, tỉnh Tiền Giang; Tạm trú: Ấp 3, xã An T, huyện B, tỉnh Long An;
- Người làm chứng: Ông Lê Văn L, sinh năm 1995 (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có việc làm và cần tiền tiêu xài, nên vào khoảng 02 giờ 45 phút ngày 01/7/2022, Nguyễn Thanh H1 điều khiển xe mô tô loại Wave, màu xanh, biển số 68HU-X2 từ nhà ngụ tại ấp 1B, xã An T, huyện B, tỉnh Long An đi dọc đường Tỉnh 830 với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Khi H1 đi ngang nhà trọ ông Lê Văn Ch ngụ tại ấp 3, xã An T, huyện B, thấy cửa rào nhà trọ không khóa; H1 tắt máy xe, dựng xe phía ngoài đường rồi đi bộ mở cửa rào vào trong khu nhà trọ, thấy phòng trọ của ông Nguyễn Văn Th khóa cửa ngoài; H1 tìm và sử dụng 01 cục đá xanh đập liên tiếp nhiều cái vào ổ khóa, làm ổ khóa cửa bung ra. H1 vứt cục đá xanh, mở cửa vào trong phòng trọ ông Th phát hiện có 01 xe mô tô hiệu Yamaha, Nouvo màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22, H1 dẫn xe ra khỏi khu nhà trọ. Do xe không có chìa khóa nên H1 dựng xe Nouvo bên ngoài, lấy xe Wave chạy lại nhà trọ ông D cách nhà trọ ông Lê Văn Ch khoảng 200 mét tìm ông Lê Văn L nhờ chở lại nhà trọ ông Chấm lấy xe Nouvo, biển số 59G1- X.22 đi bán nhưng ông L không đồng ý nên H1 chạy xe lại chỗ xe Nouvo đẩy bộ và đem giấu vào cuối dãy nhà trọ ông Dũng, rồi đi bộ lại lấy xe Wave chạy về nhà. Đến 07 giờ cùng ngày, H1 chạy xe đến Nhà trọ ông D để lấy xe Nouvo, biển số 59G1-X.22 thì bị Công an xã An Thạnh bắt giữ cùng tang vật.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐĐG ngày 04/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22 trị giá 4.250.000đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn Th trình bày: Ngày 01/7/2022, ông Th bị mất trộm 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22. Tài sản này ông mua của người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu, ông Th yêu cầu được nhận lại tài sản này. Về trách nhiệm dân sự, ông Th không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; về trách nhiệm hình sự, ông Th đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị cáo Nguyễn Thanh H1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Hành vi của bị cáo bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng tội bị cáo.
Tại Bản Cáo trạng số 90/CT-VKSBL ngày 24/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên nội dung Bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H1 từ 09 tháng đến 01 năm tù.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp tạo thu nhập nên đề nghị căn cứ khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự, không xử phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về dân sự nên đề nghị không xét đến.
- Về xử lý vật chứng của vụ án, đề nghị căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Trả lại cho ông Nguyễn Văn Th 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô loại Wave màu xanh, biển số 68HU-X2, số khung: RMEDCGHME6A006236; số máy: VME150FMG006236.
Lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo và bị hại đã được thông báo bản kết luận định giá tài sản số: 47/KL-HĐĐG ngày 04/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22 trị giá 4.250.000đồng. Bị cáo và bị hại thống nhất, không khiếu nại về giá; không yêu cầu định giá lại.
Tại phiên tòa, bị hại; người làm chứng vắng mặt nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về hành vi của bị cáo: Bị cáo H1 khai nhận tại tòa, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo nảy sinh ý định tìm tài sản của người dân trộm cắp bán lấy tiền. Khoảng 02 giờ 45 phút ngày 01/7/2022, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 68HU-X2 từ nhà ngụ tại ấp 1B, xã An Thạnh đi dọc đường Tỉnh 830 với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Khi bị cáo đi ngang nhà trọ của ông Ch ngụ tại ấp 3, xã An Thạnh thì phát hiện cửa rào nhà trọ không khóa; bị cáo đi bộ vào trong khu nhà trọ, sử dụng cục đá xanh đập liên tiếp nhiều cái làm ổ khóa cửa phòng trọ của ông Th bung ra. Bị cáo lén lút đột nhập vào phòng trọ ông Th lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22 dẫn bộ đến nhà trọ của ông D cất giấu, sau đó đem đi tiêu thụ thì bị Công an xã An Thạnh bắt giữ cùng tang vật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng với bản chất tham lam, động cơ mục đích vụ lợi. Bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Th là 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22 trị giá 4.250.000đồng. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ là quyền về tài sản của ông Thảo. Như vậy, hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số: 22/HS-ST ngày 25/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An xử phạt bị cáo H1 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích; bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý, thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử có xem xét, áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự như: bản thân bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức về pháp luật có phần hạn chế; tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi để giao trả cho bị hại.
[5] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo H1 đã thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích. Bị cáo không nhìn nhận hành vi của bị cáo, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý, thể hiện sự xem thường pháp luật.
Xét tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng, nghiêm khắc và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, khi lượng hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích tại mục.
[6] để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật và giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình, xã hội. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù là phù hợp với tính chất của vụ án và phù hợp quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo H1 không có công việc tạo thu nhập nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự, không xử phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét đến.
[9] Về vật chứng, tang vật của vụ án:
- 01 (một) xe mô tô loại Wave màu xanh, biển số 68HU-X2, số khung: RMEDCGHME6A006236; số máy: VME150FMG006236 là phương tiện bị cáo H1 thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22 là tài sản của ông Nguyễn Văn Th. Do đó, Hội đồng xét xử trả lại tài sản này cho ông Thảo.
- 01 (một) cục đá xanh. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả nên Hội đồng xét xử không xét đến;
[10] Về hành vi của đối tượng liên quan: Đối với hành vi của ông Lê Văn L được bị cáo H1 nhờ chở bị cáo và đẩy xe trộm cắp đem đi tiêu thụ nhưng ông L không đồng ý. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B không xử lý hình sự đối với ông L là phù hợp.
[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh H1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H1 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 01/7/2022.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thanh H1 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (là ngày 18/11/2022) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng, tang vật của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trả lại cho ông Nguyễn Văn Th 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Nouvo, màu nâu vàng bạc, biển số 59G1-X.22;
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô loại Wave màu xanh, biển số 68HU-X2, số khung: RMEDCGHME6A006236; số máy: VME150FMG006236.
(Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện B đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/10/2022)
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Thanh H1 phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Bị cáo có mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 95/2022/HS-ST
Số hiệu: | 95/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về