Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trương Quốc C, sinh năm 1996 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 2 Đông, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Chỗ ở: 1798 đường 30/4, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trương Văn H; Mẹ: Nguyễn Thị S; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 20 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 11/2019/HSST ngày 07-3-2019. Chấp hành xong án phạt tù ngày 28/4/2020.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16-11-2017, Chủ tịch UBND xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 582/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáp dục tại xã, thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 08-12-2017, Công an xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 04/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 200.000đ đối với hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 20-11-2018, Công an thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000đ đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị bắt ngày 12-01-2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Phạm Văn N, sinh năm 1975; địa chỉ: 09 H, Phường Y, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21h00 ngày 03-9-2021, Trương Quốc C đi qua địa chỉ số 09 đường Hoa Lư, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, C phát hiện trong sân nhà có 01 xe mô tô hiệu Honda Future II màu xanh đen, biển số 72K7-2366 của anh Phạm Văn N đang dựng trong sân nhà, không có ai trông coi, trên xe lúc này có cắm sẵn chìa khóa xe nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. C lén lút dắt xe mô tô nói trên đi ra đường, dừng lại nổ máy xe nhưng không được. Sau đó, C tiếp tục dắt xe mô tô trên đi dọc theo đường Hoa Lư. Khi dắt xe đến khu vực ao nước, cách nhà số 09 Hoa Lư khoảng 200 mét, C bỏ xe mô tô này lại rồi bỏ đi.

n cứ bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐG-TTHS ngày 03 tháng 03 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố Vũng Tàu xác định: tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô tô hiệu Honda Future II, biển số 72K7-2366 của anh Phạm Văn N có giá trị là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Trương Quốc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã thu giữ được đoạn camera an ninh lắp đặt tại nhà của anh Phạm Văn N, được lưu trữ trong 01 đĩa DVD, chuyển theo hồ sơ vụ án.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu đề nghị gì thêm.

Bản Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 21 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Trương Quốc C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Trương Quốc C về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù; Về hình phạt bổ sung:

Không áp dụng.

Bị cáo Trương Quốc C đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết quả định giá tài sản, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại tại phiên tòa: bị hại đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Quốc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 21h00 ngày 03- 9-2021, tại địa chỉ số 09 đường Hoa Lư, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Trương Quốc C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Future II màu xanh đen, biển số 72K7-2366 của anh Phạm Văn N có giá trị là 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng).

Hành vi do bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

cáo:

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị cáo là người có nhân thân xấu, bản thân đã từng bị kết án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà vẫn thực hiện hành vi trộm cắp nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân là thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [4.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: Không [8] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Trương Quốc C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trương Quốc C 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12 tháng 01 năm 2022.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về