Bản án về tội trộm cắp tài sản số 93/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 93/2022/HS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc B, Giới tính: Nam; Sinh năm: XX; Tại: Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Xóm 09A, xã Long Xá, huyện HN, tỉnh Nghệ An; Họ và tên cha: Nguyễn Quốc P (Đã chết); Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Y (Đã chết); Tiền sự: Không;

Tiền án: 03 - Bản án số 20/2014/HS-ST ngày 07/5/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng.

- Bản án số 17/2015/HS-ST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện HN, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng tại Bản án số 20/2014/HS-ST ngày 07/5/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Nguyễn Quốc B phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 16 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2016.

- Bản án số 73/2017/HS-ST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/11/2019.

Nhân thân: Ngày 18/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang ra Quyết định số 49/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo hiện nay đang chấp hành cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Khánh Hòa; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Thế CH - Sinh năm: XX; Địa chỉ: Số 07 Lê Văn M, phường VH, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Ông Trần Trọng HU - Sinh năm: 1967; Địa chỉ: Tổ 06 Hòa N, phường VH, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 00 phút ngày 03/3/2021, Nguyễn Quốc B đi bộ lang thang trên các tuY đường thuộc phường VH, thành phố Nha Trang xem có ai để tài sản sở hở thì trộm cắp bán lấy tiền tiêu dùng cá nhân. Khi đi đến bãi đất trống đối diện nhà số 07 đường Lê Văn Huân, phường VH, B phát hiện các tấm tôn lợp bị rỉ sét, xếp chồng lên nhau, gồm: 02 tấm tôn kích thước (1,2x03)m, khối lượng 12kg; 01 tấm tôn kích thước (1,2x02)m, khối lượng 08kg và 01 tấm tôn nhỏ khối lượng 05kg, của anh Nguyễn Thế CH, hiện không có người trông giữ. B đi đến cuộn tròn các tấm tôn, dùng dây điện buộc lại, rồi vác đi. Khi B đi được một đoạn khoảng 10m thì bị người dân xung quanh phát hiện, truy hô, đuổi theo bắt giữ B và cùng tang vật.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 117/KL-HĐ ĐGTS ngày 08/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Uỷ ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận:

- 02 tấm tôn kích thước (1,2x03)m, khối lượng 12kg, đã rỉ sét, đang sử dụng như sắt vụn có giá trị là 72.000 đồng (Bảy mươi hai nghìn đồng).

- 01 tấm tôn kích thước (1,2x02)m, khối lượng 08kg, đã rỉ sét, đang sử dụng như sắt vụn có giá trị là 48.000 đồng (Bốn mươi tám nghìn đồng).

- 01 tấm tôn nhỏ, khối lượng 05kg, đã rỉ sét, đang sử dụng như sắt vụn có giá trị là 30.000 đồng (Ba mươi nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 37/CT-VKSNT ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố Nguyễn Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Quốc B và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc B từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng tuyên án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

2. Bị cáo Nguyễn Quốc B đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được quay về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại và người làm chứng vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của các đương sự không gây trở ngại đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại và người làm chứng theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung... bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung hay dùng nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng truy tố:

[3.1] Tại tòa, bị cáo Nguyễn Quốc B đã khai nhận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 03/3/2021, tại khu vực bãi đất trống đối diện nhà số 07 đường Lê Văn Huân, phường VH, thành phố Nha Trang, Nguyễn Quốc B đã trộm cắp của anh Nguyễn Thế CH 02 tấm tôn kích thước (1,2m x 03)m, khối lượng 12kg; 01 tấm tôn kích thước (1,2m x 02)m, khối lượng 08kg và 01 tấm tôn nhỏ khối lượng 05kg đã rỉ sét, đang sử dụng như sắt vụn có giá trị 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng).

[3.2] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng; Phù hợp với vật chứng bị thu giữ, cùng các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 03/3/2021, Nguyễn Quốc B trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng), dưới mức giá trị quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhưng thuộc trường hợp đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên việc khởi tố Nguyễn Quốc B theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 37/CT-VKSNT ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố Nguyễn Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3.3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa P. ị cáo đang trong độ tuổi lao động nhưng không tu chí làm ăn mà đi vào con đường nghiện ngập, đã nhiều lần bị kết án về nhóm tội chiếm đoạt tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà liên tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện bản tính lười biếng, tham lam, tư lợi và xem thường pháp luật. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3.4] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc B thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự (Bút lục số 62), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Quốc B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Quốc B.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc B 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, giam thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 93/2022/HS-ST

Số hiệu:93/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về