Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HL, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 87/2022/HS-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2022/TLST- HS ngày 28 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành H, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1978 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: tổ 70, khu 7, phường H, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1941 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1951; chưa có vợ, con;

- Tiền án:

+ Ngày 02/01/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 26/10/2015 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Chấp hành xong án phí ngày 16/4/2014.

+ Ngày 18/9/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 24/11/2018, chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Chấp hành xong án phí ngày 20/11/2017;

+ Ngày 13/8/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 23/10/2021, chấp hành xong hình phạt tù. Chấp hành xong án phí hình sự ngày 03/12/2019.

- Tiền sự: không - Nhân thân:

+ Ngày 13/4/1999, bị Tòa án nhân dân quận TX, thành phố Hà Nội xử phạt 04 tháng 12 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/4/1999; chấp hành xong phần án phí ngày 13/4/1999.

+ Ngày 08/10/1999, bị Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; chấp hành xong phần dân sự ngày 29/9/2010.

+ Ngày 20/9/2000, bị Tòa án nhân dân quận TX, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2003; chấp hành xong phần dân sự ngày 26/7/2001.

Bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 11/01/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố HL- có mặt.

* Bị hại:

- Ông Đỗ Văn Th, sinh năm 1950; nơi cư trú: thôn X, xã Th, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh- Có đơn xin xử án vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phạm Hữu M, sinh năm 1974; nơi cư trú: tổ 69, khu 6, phường C, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh- Có đơn xin xử án vắng mặt.

Chị Phạm Thị L, sinh năm 1977; nơi thường trú: Tổ 4, khu 7B, phường B, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: Tổ 70, khu 7, phường H, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh - Có đơn xin xử án vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 09/01/2021, Nguyễn Thành H điều khiển xe mô tô Honda Click, màu trắng, biển kiểm soát (BKS) 14P5-6715 của chị Phạm Thị L đi từ nhà tại tổ 70, khu 7, phường H, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh đến nhà ông Đỗ Văn Th ở thôn X, xã Th, thành phố HL để hỏi mua cua. Khi đến nơi, H thấy cổng, cửa nhà ông Th mở và không có người trông coi. H nhìn thấy 01 chiếc máy phát điện màu xanh, kích thước (60x42x42)cm, trên thân máy có in chữ JL 2.8GF- 3A, để ở cạnh cửa ra vào phòng bếp, nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp để lấy tiền ăn tiêu. H lấy một chiếc kìm màu đỏ ở cạnh máy phát điện cắt các dây điện nối với máy rồi bê để lên yên xe sau mô tô chở đến cửa hàng mua bán đồ điện “Mạnh Nguyệt” ở tổ 69, khu 6, phường C, thành phố HL của anh Phạm Hữu M làm chủ, bán được 900.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, ông Th phát hiện bị mất trộm và đã trình báo Công an giải quyết.

Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra thu giữ 01 chiếc kìm bằng kim loại, phần vỏ bọc nhựa màu đỏ. Ngoài ra anh Phạm Hữu M giao nộp 01 chiếc máy phát điện cho Cơ quan điều tra.

Ngày 11/01/2022, Nguyễn Thành H bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, H tự nguyện giao nộp: 01 mũ lưỡi trai, màu xanh; 01 áo khoác màu xanh; 01 quần bò dài, màu xanh trắng; 01 đôi giày vải, màu xanh trắng; 01 xe mô tô BKS 14P5- 6715.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 09 ngày 11/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố HL kết luận: 01 máy phát điện màu xanh, kích thước (60x42x42)cm, trên thân máy có in chữ JL 2.8GF-3A, máy cũ đã qua sử dụng có giá 2.300.000 đồng.

Bị hại ông Đỗ Văn Th có lời khai: khoảng 17 giờ ngày 09/01/2022, khi ông đi làm về thì phát hiện bị mất một chiếc máy phát điện loại máy kéo 2,5 kg, màu sơn xanh, kích thước khoảng 60x42x42 cm, trên thân máy có dòng chữ JL2.8GF- 3A, để ở sát cửa gian phòng bếp. Chiếc máy phát ông mua từ tháng 01/2017 với giá 7.500.000 đồng. Đến nay ông đã được cơ quan điều tra trả lại chiếc máy phát điện nên xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - anh Phạm Hữu M có lời khai: khoảng hơn 14 giờ ngày 09/01/2022, khi anh đang ở cửa hàng điện dân dụng của anh có tên là Mạnh Nguyệt thuộc tổ 69, khu 6, C, HL thì có một nam thanh niên đi xe mô tô chở theo một chiếc máy phát điện đã cũ đến, nói là máy của nhà không sử dụng nữa, nên mang bán. Sau khi xem xét, anh đồng ý mua với giá 900.000 đồng. Khi được cơ quan Công an thông báo máy phát điện này là vật chứng của vụ án, anh đã tự nguyện giao nộp chiếc máy phát điện này. Nay anh không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền mà anh đã bỏ ra mua chiếc máy phát điện đó.

Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKSHL ngày 28 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL truy tố Nguyễn Thành H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị: áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Hưng.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 mũ lưỡi trai, 01 áo khoác, 01 quần bò dài, 01 đôi giày vải. Truy thu sung ngân sách nhà nước số tiền 900.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận về hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL truy tố. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố HL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hưng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo Hvề việc chiều ngày 09/01/2022 đã trộm cắp chiếc máy phát điện tại phòng bếp của nhà ông Th rồi chở đến cửa hàng điện dân dụng “Mạnh Nguyệt” của anh Phạm Hữu M bán lấy 900.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại ông Đỗ Văn Th, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phạm Hữu M về thời gian, địa điểm, diễn biến xảy ra sự việc phạm tội, phù hợp với vật chứng là chiếc máy phát điện do anh Phạm Hữu M giao nộp. Giá trị tài sản mà H trộm cắp đã được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố HL xác định thông qua Kết luận định giá tài sản số 09 /KLĐGTS ngày 11/01/2022.

[3] Đánh giá các chứng cứ nêu trên, kết hợp với các chứng cứ tài liệu đã được cơ quan điều tra xác minh, thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo của ông Đỗ Văn Th; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh xác định hiện trường, hình ảnh trích xuất từ camera tại cửa hàng tạp hóa Thùy Cương…thấy có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 09/01/2022, tại thôn X, xã Th, thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Thành H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc máy phát điện có giá trị 2.300.000 đồng của ông Đỗ Văn Th.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thành H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản. Trước đó bị cáo đã 06 lần bị Tòa án xét xử (trong đó có 03 lần đã được xóa án tích), tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân thành người có ích cho gia đình và xã hội mà vẫn tiếp tục phạm tội. Xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này khi chưa được xóa án tích đối với các bản án số 02/2014/HSST ngày 02/01/2014 của Tòa án nhân dân thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh; bản án số 94/2017/HSST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; bản án số 223/2019/HS-ST ngày 13/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” nên bị truy tố theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL là đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự. Hành vi đó đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây bất ổn về an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

[5] Về hình phạt bổ sung: chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HL về việc không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố HL đã trả 01 chiếc máy phát điện và 01 chiếc kìm bằng kim loại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Đỗ Văn Th nên không đề cập giải quyết;

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Click màu trắng, BKS 14P5-6715, quá trình điều tra xác định chiếc xe này thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Phạm Thị L (chị dâu của Nguyễn Thành H) cho Nguyễn Thành H mượn. Chị L không biết H đã sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố HL đã trả chiếc xe này cho chị L nên không đề cập giải quyết.

Đối với 01 chiếc mũ lưỡi trai, 01 áo khoác, 01 quần bò, 01 đôi giày vải là trang phục bị cáo đã sử dụng khi trộm cắp tài sản của ông Th, nay không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Th đã được nhận lại chiếc máy phát điện và chiếc kìm kim loại, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết;

Anh Phạm Hữu M đã tự nguyện giao nộp chiếc máy phát điện để cơ quan điều tra trả lại ông Đỗ Văn Th. Xét thấy, quá trình điều tra không đủ cơ sở kết luận anh Mạnh phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đến nay anh Mạnh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 900.000 đồng anh đã trả cho bị cáo để mua máy phát điện nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Các vấn đề khác: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị bắt 11/01/2022.

Căn cứ: điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mũ lưỡi trai, 01 (một) chiếc quần bò, 01 (một) chiếc áo khoác, 01 (một) đôi giày vải theo Biên bản giao nhận vật chứng số 143/BB-THA ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HL, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thành H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Thành H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại ông Đỗ Văn Th, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị L, anh Phạm Hữu M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

Số hiệu:87/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về