Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AA, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 87/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện AA, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2022/TLST- HS ngày 17 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Chí A, sinh năm 1996, tại Tiền Giang. Tên gọi khác: X.

Nơi đăng ký thường trú: ấp AB, xã AC, huyện AA, tỉnh Tiền Giang. Nghề nghiệp: Làm vườn. Trình độ học vấn: 06/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Nguyễn Văn B (chết) và bà Trần Thị Ngọc C Bị cáo chưa có vợ, con.

- Ngày 07/6/2018, bị Tòa án nhân huyện AA, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng, theo Quyết định số 43/2018/QĐ-TA; đến ngày 04/6/2019 chấp hành xong quyết định.

Tiền án: 01. Ngày 24/9/2020, bị cáo A bị Tòa án nhân huyện AA, tỉnh Tiền Giang xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 95/2020/HS- ST ngày 24/9/2020. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/4/2021, chưa xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/3/2022 đến ngày 12/7/2022 thì bị bắt tạm giam, theo Quyết định bắt, tạm giam số 01/2022/HSST- QĐBTG ngày 04/7/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện AA, tỉnh Tiền Giang.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại:

1/ Trần Thị Hồng D, sinh năm 1987;

2/ Nguyễn Đức E, sinh năm 1982;

Cùng cư trú: Ấp AD, xã AE, huyện AA, tỉnh Tiền Giang;

- Người làm chứng: Trần Văn F, sinh năm 1972;

Nơi cư trú: ấp AB, xã AC, huyện AA, tỉnh Tiền Giang.

(Bị hại D, E và người làm chứng F vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 14/01/2022, bị cáo Nguyễn Chí A sử dụng một con dao cán bằng gỗ có 02 khoen bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 14cm, lưỡi nhọn bằng kim loại màu đen dài khoảng 32,5cm đi đến khu vườn của chị Trần Thị Hồng D ở ấp AB, xã AC, huyện AA, tỉnh Tiền Giang để đào trộm một cây đinh lăng có chu vi 29cm, chiều cao 230cm và đem về nhà trồng trước sân.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, chị D cùng chồng là anh Nguyễn Đức E đi thăm vườn thì phát hiện bị mất cây đinh lăng, nên chị D hỏi thăm anh Trần Văn F nhà ở giáp ranh với đất của chị D, thì anh F cho biết thấy A dùng dao mác đào cây đinh lăng trong phần đất của chị D. Sau đó, chị D và anh E đi đến nhà bị cáo A thì nhìn thấy cây đinh lăng được trồng trước sân nhà A và A thừa nhận đã trộm cây đinh lăng nên cả hai anh chị trình báo Công an xã AC lập biên bản thu giữ.

Quá trình điều tra, bị cáo A đã thành khẩn thừa nhận hành vi phạm tội như trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng, đồ vật được tạm giữ, xử lý như sau:

- 01 (một) cây đinh lăng có chu vi 29cm, chiều cao 230cm.

Công an xã AC, huyện AA, tỉnh Tiền Giang đã bàn giao cho chủ sở hữu là bị hại D bảo quản, chăm sóc.

- 01 (một) con dao dài 46,5cm, phần lưỡi dài 32,5cm có 01 đầu nhọn, nơi rộng nhất lưỡi dao 06cm, có 01 lưỡi sắc bén, lưỡi dao bằng sắt màu đen. Phần cán dao dài 14cm tròn hai đầu được bọc bằng inox màu trắng, cán được làm bằng gỗ.

Viện kiểm sát nhân dân huyện AA chuyển vật chứng trên đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện AA quản lý, chờ xử lý theo quy định pháp luật.

Bản kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐG ngày 17/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện AA, tỉnh Tiền Giang kết luận:

Cây đinh lăng có chu vi 29cm, cao 230cm có giá trị là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không yêu cầu bị cáo A bồi thường về phần dân sự.

Tại phiên tòa Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện AA và có lời nói sau cùng là xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, vì mẹ già yếu hiện sống có một mình, không ai chăm sóc; bị cáo chỉ nghĩ là lấy cây về nhà để làm thuốc, không có ý định mua bán.

Hai bị hại và người làm chứng vắng mặt, không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, cùng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ vào các quy định pháp luật đã đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Chí A mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù;

Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao được mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2022 tại Chi cục Thi hành án huyện AA, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1Về tố tụng:

Xét hai bị hại là chị Trần Thị Hồng D, anh Nguyễn Đức E và người làm chứng anh Trần Văn F mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, phía bị hại cũng đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu bị cáo bồi thường. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện AA, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện AA, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng hay quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

3Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét thấy là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc làm mình bị pháp luật ngăn cấm và phải bị áp dụng chế tài của Nhà nước, vì bản thân bị cáo vừa mới chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/4/2021 về tội “Trộm cắp tài sản”, đến nay vẫn chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo bất chấp quy định pháp luật, quyết tâm đạt được mục đích là phải mang được cây đinh lăng về nhà để trồng làm thuốc, thể hiện rõ qua việc khi đào được cây, bị cáo ngang nhiên di chuyển ra khỏi khu vực đất của bị hại trước sự chứng kiến của người dân sống gần đó. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo gây ra, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Do đó, cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 01 tiền án như đã phân tích, từng bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị áp dụng với thời gian cai nghiện khá dài. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có cân nhắc đến các tình tiết nói trên và nhân thân của bị cáo.

[5] Đối với bị hại chị D và anh F đã nhận lại tài sản bị mất, không có yêu cầu bị cáo A bồi thường gì cho anh chị, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

6Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao mà bị cáo A sử dụng để đào trộm cây đinh lăng, con dao có hình dạng như đã được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện AA, tỉnh Tiền Giang.

[7] Đi với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy phù hợp với những nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Chí A phạm tội Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt 

Bị cáo Nguyễn Chí A 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 12/7/2022)

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 46,5cm, phần lưỡi dài 32,5cm, có 01 đầu nhọn, nơi rộng nhất lưỡi dao 06cm, có 01 lưỡi sắc bén, lưỡi dao bằng kim loại màu đen, phần cán dao dài 14cm, tròn hai đầu được bọc bằng inox màu trắng, cán bằng gỗ.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện AA, tỉnh Tiền Giang)

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Bị cáo A phải chịu là 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại D, E có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

Số hiệu:87/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về