Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 87/2021/HS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Khánh H (tên gọi khác: C.L), sinh ngày 15-8-1989 tại tỉnh Quảng Ngãi; trú tại: Tổ 8, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ cửa sắt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn L và bà Lê Thị L; vợ là Đỗ Thị H, có 02 con sinh năm 2015 và năm 2016; tiền án: Ngày 14-12- 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11-10-2014; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13-02-2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21-7-2021 đến nay, có mặt.

Bị hại:

- Anh Trương Ngọc L, sinh năm 1981, địa chỉ: Xóm T, thôn L, xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Công ty TNHH một thành viên sản xuất, thương mại và dịch vụ điện công nghiệp H, địa chỉ trụ sở: Số 368B đường P, phường C, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc H, địa chỉ: Xóm 2, thôn P, xã B, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mắt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Trần Thị T, sinh năm 1990, nơi đăng ký HKTT: Xóm 2, thôn P, xã B, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; nơi làm việc: Số 368B đường P, phường C, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Bà Tôn Thị Thanh V, sinh năm 1970, địa chỉ: Thôn C, xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 21-7-2021, Nguyễn Khánh H điều khiển xe mô tô hiệu SIRIUS, gắn biển kiểm soát 76P1-002.40 đến cửa hàng điện của Công ty TNHH MTV Sản xuất thương mại và dịch vụ điện công nghiệp H, địa chỉ: số 368B đường P, phường C, thành phố Quảng Ngãi để mua ticke nhựa. Khi vào bên trong cửa hàng, quan sát không thấy ai nên H lấy trộm 02 cuộn dây điện, nhãn hiệu CADIVI ra để ở baga xe, đang trên đường chở đến cửa hàng T của bà Tôn Thị Thanh V để bán thì H bị Công an phát hiện.

Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận ngoài lần thực hiện hành vi trộm cắp trên thì vào ngày 13-7-2021, H còn trộm cắp 06 cuộn dây điện (05 cuộn hiệu CADIVI, 01 cuộn hiệu LIOA) tại tiệm điện ở Tịnh Thiện của anh Trương Ngọc L, số cuộn dây điện này H đem bán cho cửa hàng T của bà Tôn Thị Thanh V với số tiền 2.700.000 đồng, H đã tiêu xài cá nhân, còn lại 150.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 26-7-2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Quảng Ngãi xác định:

+ 02 cuộn dây điện hiệu CADIVI bị Nguyễn Khánh H trộm cắp ngày 21- 7-2021 tại phường C có giá trị 7.450.000 đồng.

+ 06 cuộn dây điện (05 cuộn hiệu CADIVI, 01 cuộn hiệu LIOA) bị Nguyễn Khánh H trộm cắp ngày 13-7-2021 tại xã T có giá trị là 5.465.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Khánh H trộm cắp là 12.915.000 đồng.

Cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 28-9-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Nguyễn Khánh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khánh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Khánh H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra thu giữ được các tài sản trộm cắp, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho chị V, bị hại và chị V không có yêu cầu gì nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết. Về vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả 150.000 đồng cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc giải quyết vụ án, do đó căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Khánh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai tại giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Ngày 13-7-2021 và ngày 21-7-2021 bị cáo H có hành vi lén lút lấy trộm của anh Trương Ngọc L 06 cuộn dây điện, trị giá 5.465.000 đồng và lấy trộm của Công ty TNHH MTV Sản xuất thương mại và dịch vụ điện công nghiệp H 02 cuộn dây điện trị giá 7.450.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 12.915.000 đồng. Với hành vi nêu trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Nguyễn Khánh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Đồng thời khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có một tiền án về tội Trộm cắp tài sản và bị cáo có nhân thân xấu, năm 2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản nên cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5.1] Về tình tiết tăng nặng: Ngày 14-12-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 10/2012/HSST, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11- 10-2014, nhưng tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường về dân sự của bản án nên lần phạm tội này của Huyền thuộc trường hợp tái phạm. Đồng thời từ ngày 13-7-2021 đến ngày 21-7-2021 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi phạm tội, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên. Đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động gia đình bồi thường khắc phục phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra và bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 150.000 đồng thu giữ của bị cáo. Đây là số tiền bị cáo thu được từ việc bán tài sản do trộm cắp mà có, tuy nhiên tài sản trộm cắp cơ quan điều tra thu giữ được từ bà Tôn Thị Thanh V và đã trả lại cho bị hại, bà Tôn Thị Thanh V đã được gia đình bị cáo trả lại đủ số tiền mua tài sản, bà V không có yêu cầu gì, nên trả lại số tiền 150.000 đồng cho bị cáo.

Đối với xe mô tô hiệu SIRIUS, gắn biển kiểm soát 76P1-002.40 bị cáo sử dụng làm phương tiện đi thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra xác định đây là xe mô tô được cấp biển kiểm soát 76R2-6149 do ông Phạm T (Sinh năm 1976, nơi cư trú: thôn C, xã T, thành phố Quảng Ngãi) đăng ký sở hữu. Ngày 11- 4-2021 chị Phạm Thị Mỹ N điều khiển đến chợ Khê Ba ở xã T thì bị mất trộm. Còn biển kiểm soát 76P1-002.40 là của xe mô tô nhãn hiệu TENDER, số loại 110E, màu đen xám, số khung: 13198, số máy: 013198 do anh Hồ Lâm A (Sinh năm 1992, nơi cư trú: thôn 6, xã T, huyện Trà Bồng) đăng ký sở hữu. Anh Hồ Lâm A đã bán xe trên cho một phụ nữ thu mua phế liệu (không rõ lai lịch) vào năm 2014. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi tách xe mô tô này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiến hành điều tra, xác minh trong vụ án khác, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[8] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Tôn Thị Thanh V là người mua 06 cuộn dây điện mà bị cáo lấy trộm của ông L, nhưng khi mua tài sản, bà V không biết đây là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà V về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận. Về mức hình phạt, xét thấy bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng nhưng có 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Điều 106 và Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khánh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khánh H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21-7-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Trả số tiền 150.000 đồng cho Nguyễn Khánh H (Số tiền này Công an thành phố Quảng Ngãi đã nộp vào tài khoản số 3949.0.1075855.00000 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi mở tại Kho bạc nhà nước theo Giấy ủy nhiệm chi ngày 04-10-2021).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Khánh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2021/HS-ST

Số hiệu:87/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về