Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 85/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HS ngày 22/6/2021, đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN L - Sinh năm 1985 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Trần Thị H (đã chết); Tiền án: Ngày 15/5/2003 Nguyễn Văn Lai bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 và 03 năm tù về tội: “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 133 BLHS. Tổng hợp hình phạt là 03 năm 06 tháng tù tại Bản án số 79/2003/HSST; Ngày 16/7/2003 Nguyễn Văn Lai bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 04 năm tù về tội: “Cướp tài sản” theo khoản 2 Điều 133 BLHS, tại Bản án số 113/2003/HSST. Cộng với bản án hình sự sơ thẩm số 79/2003/HSST ngày 15/5/2003, tổng hình phạt 2 bản án là 07 năm 06 tháng tù theo bản án số 113/HSST; Ngày 23/01/2006 Nguyễn Văn Lai bị Tòa án nhân dân huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 311 BLHS, tại Bản án số 01/2006/HSST. Cộng với 04 năm 04 tháng 13 ngày của bản án số 113/2003/HSST ngày 16/7/2003, của Tòa an nhân dân tỉnh Bình Thuận mà bị cáo Lai chưa chấp hành là 05 năm 04 tháng 13 ngày tù. Chấp hành xong hình phạt về lại địa phương ngày 06/12/2010; Ngày 24/10/2012 Nguyễn Văn Lai bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 3 Điều 138 BLHS, tại Bản án số 94/2012/HSST, chấp hành xong án phạt tù ngày 19/6/2020, (chưa được xóa án tích); Ngày 10/5/2021, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 57/HSST ngày 10/5/2021; Tiền sự: Không. Bị cáo hiện hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Hàm Thuận Bắc ngày 01/02/2021 trong vụ án khác. Bị cáo có mặt.

Bị hại: Bà Lê Thị Thùy D – Sinh năm 1999 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 1, xã H, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Người làm chứng:

1/ Bà Nguyễn Thị Ngọc H (K) – Sinh năm 1999 (Vắng mặt).

2/ Ông Nguyễn Văn H – Sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn 1, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quan sát và biết cửa sau nhà bà Nguyễn Thị Huệ chỉ đóng lại, không có chốt khóa nên khoảng 05 giờ 00 phút, ngày 30/12/2020, Nguyễn Văn Lai đã lén lút mở cửa sau, đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị Huệ, thấy có 01 xe mô-tô màu đỏ - đen, hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 86B3 -337.12 (xe do bà Lê Thị Thùy Dung làm chủ sở hữu) trên xe mô-tô có cắm sẵn chìa khóa đang để tại đây, Lai đi đến dắt xe ra và điều khiển chạy xuống thành phố Phan Thiết. Lai gọi điện cho Nguyễn Thị Ngọc Hoa (Kiều) hỏi: “Em có chỗ nào mua xe không, anh nhớ em có bạn mua xe phải không”. Hoa hỏi lại: “Bán xe gì, bán bao nhiêu”, Lai trả lời: “Xe Sirius có giấy tờ, xe mô-tô của bạn anh, bán 8 triệu”. Tưởng thật, Hoa liên lạc với một người tên Dũng (không rõ họ, tên địa chỉ cụ thể) ở thành phố Phan Thiết qua ứng dụng Messenger hỏi: “Có ai mua xe không”, Dũng trả lời: “Có, bán bao nhiêu”, thì Hoa nói: “Xe của ông anh muốn bán 8 triệu” rồi nhắn tin số điện thoại của Dũng cho Lai để cả hai tự liên lạc với nhau. Lai sử dụng điện thoại di động loại Nokia gắn sim số 0522292871 gọi điện thoại liên lạc với Dũng, sau đó, Lai điều khiển xe mô-tô mới trộm được đi đến gặp Dũng nói: “Xe mô-tô này là của bà cô, đem xuống cầm với giá 5 triệu”, Dũng không đồng ý, lúc này Lai mở cốp xe ra thấy có giấy tờ xe nên nói với Dũng là bán xe này với giá 4.500.000 đồng, Dũng đồng ý mua và đưa tiền cho Lai. Đến ngày 02/01/2021, ông Nguyễn Văn Hải là chú ruột của Nguyễn Văn Lai và cũng là em ruột của bà Nguyễn Thị Huệ, biết được Lai là người đã trộm xe mô-tô của bà Dung nên đã liên lạc, gặp người đã mua xe của Lai (thông qua Lai) chuộc lại xe mô-tô trên với số tiền 5.600.000 đồng đem về trả lại cho bà Lê Thị Thùy Dung (số tiền này là tiền của Dung đưa cho Hải nhờ tìm cách liên lạc chuộc lại xe đã bị Lai lấy trộm đem bán).

Ngoài lần phạm tội trên. Quá trình điều tra còn xác định:

- Ngày 31/01/2021, Nguyễn Văn Lai thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô-tô biển số 85B5-198.96 của Nguyễn Thị Trúc Phương tại khu phố 2, phường Tân Thiện, thị xã La Gi. Cơ quan CSĐT Công an thị xã La Gi đã kết thúc điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi đã ban hành Cáo trạng số 58 ngày 25/5/2021 truy tố bị can Nguyễn Văn Lai về tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự chuyển Tòa án chờ xét xử.

- Ngày 11/12/2020, Nguyễn Văn Lai có hành vi trộm cắp bò tại thôn 1, xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đưa ra xét xử, tuyên phạt Nguyễn Văn Lai 04 năm 06 tháng tù tại bản án số 57/HSST ngày 10/5/2021.

Kết luận định giá tài sản số 12/2021/HĐĐGTT ngày 27/01/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng Hàm Thuận Bắc kết luận: 01 xe mô-tô, biển số: 86B3-337.12; xe mua năm 2015. Nhãn hiệu YAMAHA, số loại SIRIUS, loại xe hai bánh, màu sơn đỏ-đen. Số khung: RLCS5C6H0EY039246. Số máy: 5C6H-039252. Giá trị mới, chưa qua sử dụng là 18.800.000 đồng/chiếc. Giá trị sử dụng còn lại là 45%. Thành tiền: 18.800.000đ x 45% = 8.460.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 8.460.000 đồng (Tám triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng).

Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý:

01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen, biển số 86B3 – 337.12, số máy: 5C6H-039252, số khung: RLCS5C6H0EY039246; 01 Giấy phép lái xe số 601183003121 mang tên Lê Thị Thùy Dung. Sau khi tạm giữ và làm rõ, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà Lê Thị Thùy Dung là chủ sở hữu.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0522292871 là điện thoại được Lai sử dụng, liên lạc với Dũng để bán xe mô-tô trộm cắp được, Cơ quan CSĐT Công an thị xã La Gi sau khi tạm giữ đã bàn giao lại cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Thuận Bắc xử lý, đây là vật chứng của vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc ra Quyết định chuyển vật chứng. Chuyển từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc bảo quản, chờ xử lý.

Về dân sự: Bà Lê Thị Thùy Dung yêu cầu Nguyễn Văn Lại trả lại số tiền 5.600.000 đồng đã đưa cho ông Nguyễn Văn Hải đi chuộc xe mô-tô mà Lai đã lấy trộm đem bán.

Tại bản cáo trạng số 81/CT-VKSHTB ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố: Bị cáo Nguyễn Văn Lai về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Văn Lai đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự. Phạt Nguyễn Văn Lai từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù. Tổng hợp hình phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HSST ngày 10/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả 02 bản án.

Về dân sự : Áp dụng Điều 584, Điều 585, Khoản 1 Điều 586, Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải trả cho bà Lê Thị Thùy Dung số tiền 5.600.000đồng (Năm triệu sáu trăm ngàn đồng).

Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0522292871.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Lai khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 30/12/2020, Nguyễn Văn Lai đã lén lút đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị Huệ lấy trộm 01 chiếc xe mô-tô biển số 86B3-337.12, màu đỏ - đen, hiệu Yamaha, loại Sirius của bà Lê Thị Thùy Dung đang để tại đây. Giá trị tài sản xe mô-tô bị chiếm đoạt qua định giá là 8.460.000đồng.

Hành vi của bị cáo Lai đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã có tiền án với tình tiết tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích tiếp tục phạm tội là tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung được qui định tại g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Lai khai báo thành khẩn ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Đối với mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp, tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tại bản án số 57/2021/HSST ngày 10/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” đã có hiệu lực pháp luật sẽ được tổng hợp vào bản án này, buộc bị cáo Lai phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.

[6] Về dân sự:

Bà Lê Thị Thùy Dung là bị hại, sau khi nhận lại tài sản là xe mô tô biển số 86B3 – 337.12 cùng giấy tờ có liên quan, bà Dung yêu cầu Nguyễn Văn Lai trả lại số tiền 5.600.000 đồng đã đưa cho ông Nguyễn Văn Hải đi chuộc xe mô-tô mà Lai đã lấy trộm đem bán. Xét thấy yêu cầu của bà Dung là phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Thị Ngọc Hoa (Kiều) là người giới thiệu Dũng (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) cho Lai để cầm thế xe mô-tô, sau đó mua lại xe mô-tô biển số 86B3-337.12 của Lai đem tới bán. Tuy nhiên, Hoa không biết xe mô-tô trên là tài sản do Lai trộm cắp được mà có nên không phạm tội: “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông có tên “Dũng” ở khu vực phường phú Thủy, thành phố Phan Thiết đã mua xe mô-tô biển số 86B3-337.12 của Lai đem tới (theo lời khai của Lai). Hiện nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người có tên “Dũng” này. Mặt khác theo lời khai của Lai thì Dũng không biết xe mô-tô mà Lai đem đến bán là tài sản do Lại phạm tội mà có nên cũng chưa đủ căn cứ để xem xét xử lý người có tên “Dũng” này về tội: “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự. Hành vi của người có tên “Dũng” này, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Thuận Bắc tiếp tục xác minh, làm rõ, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0522292871 là điện thoại được Lai sử dụng, liên lạc với Dũng để bán xe mô-tô trộm cắp được là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần phải tịch thu sung quỹ.

Bị cáo Nguyễn Văn Lai phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 584, Điều 585, Khoản 1 Điều 586, Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Lai phạm tội “Trộm cắp tài sản ”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Lai 03 (ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 04 (bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2021/HSST ngày 10/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, đã có hiệu lực pháp luật. Buộc Nguyễn Văn Lai phải chấp hành hình phạt của cả 02 bản án là 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/02/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Lai phải trả cho bà Lê Thị Thùy Dung số tiền 5.600.000đồng (Năm triệu sáu trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0522292871. Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/6/2021.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Lai phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/7/2021). Riêng bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2021/HS-ST

Số hiệu:85/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về