Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 83/2022/HS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thiên L (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 10 tháng 02 năm 1998, tại Đ Nơi đăng ký thường trú: 23/8 khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ Nơi đã sinh sống: 52/24, khu phố 8, phường L , thành phố B, tỉnh Đ;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 05/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1967;

Bị cáo là con duy nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 1300 ngày 20/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1979 – Vắng mặt Địa chỉ: Tổ 20, khu phố 8, phường L B, thành phố B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01 tháng 9 năm 2021, Nguyễn Thiên L do tiếp xúc gần với người có kết quả dương tính Covid-19 nên được đưa đi cách ly y tế tập trung tại phòng số 31 ở trường trung học cơ sở Hoàng Văn Thụ thuộc khu phố 2, phường L B, thành phố B. Tại đây, L thường qua phòng số 17 dành cho người có kết quả dương tính Covid-19 ở, để thăm bà Nguyễn Thị Kim Đính (sinh năm 1967, ngụ tại 52/24, khu phố 8, phường L Bình, thành phố B, tỉnh Đ, là mẹ ruột L) và có gặp anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1979, tạm trú ở tổ 20, kp8, phường L B cũng đang ở chung phòng với mẹ của L. Tại đây, L nảy sinh ý định lợi dụng buổi tối mọi người đi ngủ để trộm cắp tài sản.

Thực hiện ý định trên, vào khoảng 04 giờ ngày 06 tháng 9 năm 2021, L đi từ phòng của L đến phòng số 17 tìm tài sản để trộm cắp. Khi vào phòng thấy anh T đang nằm ngủ, bên cạnh có để 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO A53 màu đen đang cắm sạc, L lén lút đi lại gần rút điện thoại khỏi dây sạc, bỏ vào túi quần và mang về phòng số 31 của L để cất giấu. L lấy sim trong điện thoại mới trộm cắp ra vứt ở khuôn viên trường Hoàng Văn Thụ và gắn sim thuê bao số 0567604822 của L vào điện thoại để sử dụng. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, anh T thức dậy và phát hiện có kẻ gian đã trộm cắp chiếc điện thoại của anh T nên đã báo ban quản lý khu cách ly y tế. Đến 09 giờ, ngày 08 tháng 9 năm 2021, khi L đang cất điện thoại OPPO A53 trong túi quần thì nhân viên y tế đến kiểm tra và phát hiện nên đã trình báo lên Công an phường L Bình lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng của vụ án: 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A53, số Imei:

862627051898234 là tài sản của anh Nguyễn Thanh T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh T.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 456/TCKH-HĐĐGTS ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu OPPO A53, số Imei: 862627051898234, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại khoảng 75%, trị giá 2.317.500 đồng (Hai triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng)”.

Về dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Thanh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 106/CT-VKSBH ngày 14 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Thiên L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiên L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L từ 08 tháng đến 12 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 04 giờ, ngày 06 tháng 9 năm 2021, tại phòng số 17 của khu cách ly y tế đặt tại trường trung học cơ sở Hoàng Văn Thụ, thuộc khu phố 2, phường L Bình, thành phố B, tỉnh Đ, Nguyễn Thiên L đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A53, số Imei: 862627051898234, có giá trị định giá là 2.317.500 đồng (Hai triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng) của anh Nguyễn Thanh T, sau đó L bị phát hiện khởi tố để điều tra xử lý.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình. [4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương, bị cáo có 01 nhân thân xấu về tội gây rối trật tự công cộng. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết nào tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về phần dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không ra xem xét giải quyết.

[8] Về vấn đề khác: Vật chứng đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiên L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2022/HS-ST

Số hiệu:83/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về