Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P- TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2022/HSST, ngày 24.5.2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2022/HSST- QĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN N (tên gọi khác: Bé Bầu, Bầu Lé).

Sinh ngày: 28/8/1993, tại Bình Thuận, giới tính: nam Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 2, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: không Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964; Nghề nghiệp: không Con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; Nghề nghiệp: nội trợ.

Cùng trú tại: khu phố 2, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án:

+ Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 114/2012/HSST ngày 11/7/2012, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/11/2012.

+ Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 126/2013/HSST ngày 19/7/2013, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2014.

+ Năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” theo bản án số 05/2015/HSST ngày 14/01/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/9/2017.

+ Năm 2018 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 48 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo bản án số 47/2018/HSST ngày 28/5/2018, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/2021.

- Tiền sự: không.

- Nhân thân:

+ Ngày 02/10/2006, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản.

+ Ngày 03/02/2010, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản.

+ Ngày 29/9/2017 bị Công an phường H, thành phố P xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đến nay Nguyễn N vẫn chưa chấp hành.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 12/02/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ-Công an thành phố P.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: anh Nguyễn Văn M, sinh năm 2005 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn Tiến Hòa, xã T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ ngày 10/02/2022, Nguyễn N (sinh năm 1993, trú tại khu phố 2, phường H, thành phố P) đi bộ đến công viên trên đường Tôn Đức Thắng, thành phố P để gặp Trương Thị Ý Y (sinh năm 1985, trú tại khu phố 5, phường P, thành phố P) thì Y nhờ N đến tiệm nét Tin Tin ở số 53 Võ Hữu, thuộc khu phố 2, phường P, thành phố P để đón con của Y là Chung Nhật H (sinh năm 2012, trú tại khu phố 5, phường P, thành phố P) về. N đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 86F7-8386 của Y đến tiệm Nét Tin Tin. Khi đến tiệm nét N thấy anh Nguyễn Văn M (sinh năm 2005, trú tại thôn T, xã L, thành phố P) đang ngồi ngủ trong tiệm, phía dưới ghế chỗ anh M ngồi có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax nên N nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trên. N ngồi xuống ghế bên cạnh ghế của anh M, lén lút dùng tay trái lấy trộm 01 điện thoại của anh M rồi bỏ vào túi quần bên phải và tiếp tục lấy 01 cục sạc điện thoại di động màu trắng của anh M để trên bàn sau đó nhanh chóng ra lấy xe mô tô biển số 86F7-8386 chở H về lại công viên trên đường Tôn Đức Thắng. Tại đây, khi thấy H và Y đã ngủ, N lấy 01 áo màu trắng dài tay của H bọc chiếc điện thoại lấy trộm được lại rồi đem giấu sau hàng rào sắt công viên, còn cục sạc điện thoại N quăng gần chỗ ngủ. N, Y và H ngủ tại công viên đến khoảng 12 giờ ngày 10/02/2022. Trong lúc dọn đồ để đi về thì Y phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax được bọc trong chiếc áo của H nên đã mang về phòng trọ của Y ở khu phố D, phường T, thành phố P.

Đi với anh M, khoảng 03 giờ 30 phút ngày 10/02/2022, sau khi tỉnh dậy thì phát hiện điện thoại di động Iphone 11 Promax và cục sạc điện thoại đã bị kẻ gian trộm cắp nên đã trình báo Công an phường Phú T. Sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm từ anh M, Công an phường Phú T đã tiến hành trích xuất camera tại tiệm nét Tin Tin, xác định đối tượng đã trộm cắp điện thoại di động và cục sạc điện thoại của anh M là Nguyễn N nên đã đưa N về trụ sở Công an phường để làm việc. Tại Công an phường, N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Công an phường Phú T đến làm việc với Y thì Y đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax mà mình đã nhặt được ở công viên.

Đi với 01 cục sạc điện thoại màu trắng N lấy trộm của anh M, khoảng 08 giờ ngày 10/02/2022, chị Lê Thị QuY (là công nhân đô thị tại công viên Tôn Đức Thắng, thành phố P) đến công viên làm việc thì nhặt được 01 cục sạc điện thoại màu trắng nên giao nộp cho công an phường Phú T.

Vt chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám; số IMEI 1: 353892100189359; số IMEI 2: 35389200218208, do Trương Thị Ý Y giao nộp.

- 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng, trên sạc có dán tem có in dòng chữ màu đỏ “M Tâm”, do chị Lê Thị QuY giao nộp.

- 01 áo thun trẻ em loại dài tay.

- 01 xe mô tô biển số 86F7-8386.

- 01 USB có vỏ ngoài bằng kim loại và nhựa màu đen, hiệu Sandisk, có lưu trữ 03 đoạn video ghi lại cảnh một nam thanh niên thò tay qua lấy trộm 01 điện thoại di động của một nam thanh niên đang nằm ngủ trên bàn tại quán nét Tin Tin lúc 03 giờ 15 phút ngày 10/02/2022.

Tại Bản kết luận định giá số 20/KL-HĐĐG của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P xác định: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xám; và 01 cục sạc điện thoại di động màu trắng.Tổng giá trị tài sản là 12.960.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố P đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám; số IMEI 1: 353892100189359; số IMEI 2: 35389200218208 và 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng, trên sạc có dán tem có in dòng chữ màu đỏ “M Tâm” cho người bị hại là anh Nguyễn Văn M. Sau khi nhận lại tài sản, anh M không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đi với xe mô tô biển số 86F7-8386, quá trình điều tra xác định xe mô tô do bà Đinh Thị Hạ L, địa chỉ tại khu phố 7, phường L, thành phố P đứng tên đăng ký chủ sở hữu, nhưng năm 2020 đã bán lại xe với giá 3.900.000 đồng cho một người không rõ nhân thân. Trương Thị Ý Y cũng khai nhận mua lại xe mô tô biển số 86F7-8386 từ một người không quen biết vào năm 2020 với giá 3.900.000 đồng, hiện xe thuộc sở hữu của Y. Ngày 10/02/2022, Y giao xe cho Nguyễn N để đi đón Chung Nhật H về, Y không biết việc Nsử dụng xe vào việc đi trộm cắp tài sản, nên ngày 29/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố P đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản gồm xe mô tô biển số 86F7-8386 và 01 áo thun trẻ em màu trắng cho Trương Thị Ý Y. Sau khi nhận lại tài sản, Y không yêu cầu gì về dân sự.

Đi với 01 USB đã thu giữ hiện được lưu giữ cùng hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc xét xử.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 58/CT/VKS-PT, ngày 24/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn N từ 42 đến 54 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 12/02/2022.

Về tang vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an TP. Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng: trả lại tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám; số IMEI 1: 353892100189359; số IMEI 2: 35389200218208 và 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng, trên cóc sạc có dán tem có in dòng chữ màu đỏ “M Tâm” cho người bị hại là anh Nguyễn Văn M. Sau khi nhận lại tài sản, anh M không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đi với xe mô tô biển số 86F7-8386, quá trình điều tra xác định xe mô tô do bà Đinh Thị Hạ L, địa chỉ tại khu phố 7, phường L, thành phố P đứng tên đăng ký chủ sở hữu, nhưng năm 2020 đã bán lại xe với giá 3.900.000 đồng cho một người không rõ nhân thân. Trương Thị Ý Y cũng khai nhận mua lại xe mô tô biển số 86F7-8386 từ một người không quen biết vào năm 2020 với giá 3.900.000 đồng, hiện xe thuộc sở hữu của Y. Ngày 10/02/2022, Y giao xe cho Nguyễn N để đi đón Chung Nhật H về, Y không biết việc N sử dụng xe vào việc đi trộm cắp tài sản, nên ngày 29/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố P đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản gồm xe mô tô biển số 86F7-8386 và 01 áo thun trẻ em màu trắng cho Trương Thị Ý Y. Sau khi nhận lại tài sản, Y không có yêu cầu gì về dân sự.

Đi với 01 USB đã thu giữ hiện được lưu giữ cùng hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc xét xử.

Ý kiến của người bị hại: anh Nguyễn Văn M vắng mặt tại phiên tòa, anh không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự, về hình sự không yêu cầu gì.

Tại phiên tòa, bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Viện kiểm sát, đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản luận luận tội của vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đã ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân dân thành phố P: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 58/CT/VKS- PT, ngày 24/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, vào khoảng 03 giờ 15 phút ngày 10/02/2022, Nguyễn N đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám và 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng trị giá 12.960.000 đồng của anh Nguyễn Văn M tại tiệm Nét Tin Tin ở số 53, đường V thuộc khu phố 2, phường Phú T, thành phố P.

Vì vậy, Cáo trạng số 58/CT/VKS-PT, ngày 24/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Nguyễn N là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám và 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng trị giá 12.960.000 đồng Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích vào ngày 28/5/2018. Bị cáo Nguyễn N bị Tòa án nhân dân thành phố P áp dụng tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” xử phạt 48 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 47/2018/HS-ST, chấp hành xong hình phạt vào ngày 15/10/2021, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội mới với lỗi cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải tuyên phạt bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu đã có 04 tiền án; sau khi chấp hành án xong, chưa xóa tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội như trước.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo N thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố P đã xử lý vật chứng trả lại tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 promax màu xám; số IMEI 1: 353892100189359; số IMEI 2: 35389200218208 và 01 bộ sạc điện thoại di động màu trắng, trên cóc sạc có dán tem có in dòng chữ màu đỏ “M Tâm” cho người bị hại là anh Nguyễn Văn M. Sau khi nhận lại tài sản, anh M không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đi với xe mô tô biển số 86F7-8386, quá trình điều tra xác định xe mô tô do bà Đinh Thị Hạ L, địa chỉ tại khu phố 7, phường L, thành phố P đứng tên đăng ký chủ sở hữu, nhưng năm 2020 đã bán lại xe với giá 3.900.000 đồng cho một người không rõ nhân thân. Trương Thị Ý Y cũng khai nhận mua lại xe mô tô biển số 86F7-8386 từ một người không quen biết vào năm 2020 với giá 3.900.000 đồng, hiện xe thuộc sở hữu của Y. Ngày 10/02/2022, Y giao xe cho Nguyễn N để đi đón Chung Nhật H về, Y không biết việc Nsử dụng xe vào việc đi trộm cắp tài sản, nên ngày 29/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố P đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản gồm xe mô tô biển số 86F7-8386 và 01 áo thun trẻ em màu trắng cho Trương Thị Ý Y. Sau khi nhận lại tài sản, Y không có yêu cầu gì về dân sự.

Đi với 01 USB đã thu giữ hiện được lưu giữ cùng hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc xét xử.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. tuyên bố: bị cáo Nguyễn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn N 48 (Bốn mươi tám) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam từ ngày 12/02/2022.

[2]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3].Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Nguyễn N, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/6/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

Số hiệu:82/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về