Bản án về tội trộm cắp tài sản số 81/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 04/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 04 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 81/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2023/QĐXXST- HS ngày 21/6/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 20 tháng 5 năm 1994.

Nơi ở hiện nay: bản M, xã K, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H (Đã chết); Bị cáo chung sống như vợ chồng với Pờ Khừ D - sinh năm 2001 và có 02 con. Con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020; Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình;

Tiền án: không.

Tiền sự: ngày 24/5/2022 Nguyễn Văn H bị Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi "Trộm cắp tài sản". Đến nay H vẫn chưa thi hành Quyết định này.

Nhân thân: Ngày 28/6/2012, Nguyễn Văn H bị Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền. Năm 2018, H đã thi hành xong Quyết định và đến thời điểm phạm tội đã được xoá tiền sự này. Năm 2012, Nguyễn Văn H bị Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ tuyên phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 2016, Nguyễn Văn H tiếp tục bị Toà án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ tuyên phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đến thời điểm phạm tội (ngày 12/01/2023), Nguyễn Văn H đã chấp hành xong toàn bộ các bản án và đã được xoá án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2023 cho đến nay (Có mặt).

- Đại diện bị hại: ông Pờ Lỳ P - sinh năm 1966.

Nơi thường trú: bản L, xã K, huyện M, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt)

- Những người làm chứng:

+ Anh Lù Văn B - sinh năm 1991 Nơi cư trú: bản P, xã M, huyện M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt)

+ Anh Lù Gó C - sinh năm 1996 Nơi cứ trú: bản P, xã M, huyện M, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 12/01/2023 Nguyễn Văn H trên đường đi chơi về đến đầu bản L, xã K thì nhìn thấy bên phía tay trái chiều di chuyển của mình có hai ngôi nhà đang xây dựng nên đã nảy sinh ý định lén lút đi vào đó để trộm cắp tài sản. H dựng xe máy ở lề đường rồi một mình đi vào nhà gia đình vợ chồng ông Pờ Lỳ Po và bà Sừng Phí Mư. Vào đến nơi, quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi nên H đã trèo qua tấm tôn thưng xung quanh nhà để đi vào nhà. Khi vào trong nhà, H quan sát và tìm kiếm tài sản có giá trị để trộm cắp. H nhìn thấy một cuộn dây điện nhãn hiệu “Trần Phú” màu vàng chưa sử dụng nên đã đi tới để bê cuộn dây điện đi ra ngoài. Trong khi bê cuộn dây điện, H nhìn thấy trên cột nhà có một chùm chìa khoá. H đã lấy chùm chìa khoá và bê cuộn dây điện đi ra đặt ở bàn uống nước. H dùng một chiếc chìa khoá trong chùm chìa khoá đã lấy cho vào ổ khoá của cánh cửa tủ bên phải thì mở được ổ khoá.

Sau khi mở cánh tủ ra, H thấy trong tủ ngăn phía trên có một túi nilon màu xanh, bên trong có 86.000.000 đồng. Ngăn phía dưới có một chiếc ví da màu đỏ, bên trong ví có 4.200.000 đồng và 300 YUAN. H đã lấy tất cả số tiền ở túi nilon màu xanh và ví da màu đỏ rồi gom chung lại và cho vào túi áo khoác bên trái đang mặc. Trên đường đi ra, H nhặt một vỏ bao xi măng nhãn hiệu “Điện Biên” đã qua sử dụng và cho cuộn dây điện vào bên trong. Sau đó, H bê cuộn dây điện đi ra xe máy bằng đường cũ. H điều khiển xe máy đi đến cây xăng P rồi lấy một tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng trong số tiền mà H đã trộm cắp được ra để mua 20.000 đồng xăng đổ vào xe máy (Trong quá trình H đi mua xăng, anh Lù Văn B là nhân viên cây xăng và anh Lù Gó C là thợ cơ khí, đang làm việc gần đó nhìn thấy H đang chở theo cuộn dây điện mà H đã trộm cắp được). Sau đó, H điều khiển xe máy đi về nhà. Khi về đến cổng nhà, H đem cuộn dây điện được đựng trong vỏ bao xi măng giấu vào bụi tre gần đấy. Sau đó, H tiếp tục đi lên đồi phía sau nhà để tìm chỗ cất giấu tiền. Trên đường đi, H đã nhặt một đoạn dây nhựa màu vàng cam buộc toàn bộ tiền đã trộm cắp được (trừ số tiền thừa mà H đã lấy ra đổ xăng) và nhặt 02 túi nilon màu hồng, một túi nilon màu xanh gói lại bên ngoài. Khi đi đến một cái ao đã khô nước phía trên đồi, H dùng tay cậy một cục đá ở bên cạnh một cái cây nhỏ lên cho gói tiền xuống đó và vùi đất lại. Sau khi giấu tiền xong, H đi ra chỗ bụi tre lấy cuộn dây điện chở xuống một bụi rậm gần bãi ruộng của ông Pờ Khù Cà để cất giấu rồi đi về nhà. Đến trưa ngày 13/01/2023, do đã tiêu xài hết số tiền thừa sau khi đổ xăng, Nguyễn Văn H một mình đi bộ lên vị trí cất giấu tiền và lấy ra một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng để tiêu xài cá nhân (Số tiền này H đã tiêu xài cá nhân hết). Số tiền còn lại, H gói lại và cất giấu ở vị trí cũ.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông Pờ Lý Po đã đến Công an xã K để trình báo sự việc. Qua rà soát, xác minh, ngày 30/01/2023, Công an xã K đã mời Nguyễn Văn H đến làm việc. Quá trình làm việc, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của ông Po mà bản thân đã thực hiện và vị trí mà H đã cất giấu tài sản trộm cắp được.

Tại bản kết luận giám định số 121/KL-KTHS ngày 06/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: 179 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng gửi đến giám định là tiền thật.

Tại bản kết luận giám định số 713/KL-KTHS ngày 10/02/2023 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an, kết luận: 03 tờ tiền, mỗi tờ có mệnh giá 100 YUAN gửi đến giám định là tiền Trung Quốc thật.

Tại bản kết luận định giá số 07/KLHĐĐGTS ngày 10/03/2023 của Hội đồng định giá UBND huyện Mường Tè, kết luận: 01 cuộn dây điện chưa qua sử dụng, màu vàng, loại cơ điện Trần Phú - TRAFUCO, Vcm - dẹp 2x6 mm2, có chiều dài 100m, lô sản xuất ngày 22/12/2021 trị giá 4.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá số 08 ngày 10/3/2023 của Hội đồng định giá UBND huyện Mường Tè kết luận: 300 YUAN (nhân dân tệ) trị giá 1.055.400 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 42/CT-VKS-MT ngày 18/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đề nghị Hộ đồng xét xử.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao xi măng nhãn hiệu Điện Biên; 01 đoạn dây nhựa màu vàng cam dài 69 cm; 01 túi nilon màu xanh và 02 túi nilon màu hồng.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè.

Bị hại tại đơn xin xét xử vắng mặt trình bày không có yêu cầu về bồi thường mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Mường Tè, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, vào khoảng 13 giờ, ngày 12/01/2023, tại nhà ông Pờ Lý Po, sinh năm 1966, thuộc bản L, xã K, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, NguyễnVăn H đã trộm cắp được số tiền 90.200.000 đồng; 01 cuộn dây điện trị giá 4.000.000 đồng và 03 tờ tiền Trung Quốc trị giá 1.055.400 đồng của gia đình ông Pờ Lỳ Po để sử dụng và tiêu xài cá nhân. Tổng trị giá tài sản mà H đã trộm cắp được là 95.255.400 đồng.

Bị cáo Nguyễn Văn H có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi trộm cắp của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, đúng quy định của pháp luật cần được chấp nhận. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Ngày 28/6/2012, Nguyễn Văn H bị Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền. Năm 2018, H đã thi hành xong Quyết định và đến thời điểm phạm tội đã được xoá tiền sự này. Năm 2012, Nguyễn Văn H bị Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ tuyên phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 2016, Nguyễn Văn H tiếp tục bị Toà án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ tuyên phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đến thời điểm phạm tội (ngày 12/01/2023), Nguyễn Văn H đã chấp hành xong toàn bộ các bản án và đã được xoá án tích. Bị cáo có một tiền sự theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 09/QĐ-XPVPHC ngày 24/5/2022 của Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu về hành vi "Trộm cắp tài sản" xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng. Đến nay H vẫn chưa thi hành Quyết định này.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 BLHS.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng”. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Tại đơn xin xét xử vắng mặt đại diện bị hại không có yêu cầu về bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. [6]. Về vật chứng của vụ án: 01 vỏ bao xi măng nhãn hiệu Điện Biên; 01 đoạn dây nhựa màu vàng cam dài 69 cm; 01 túi nilon màu xanh và 02 túi nilon màu hồng, đây là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về những vấn đề khác:

Đối với chiếc xe máy mà Nguyễn Văn H đã sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội: H đã cầm cố cho một người lạ mặt ở thành phố Lai Châu. Chiếc xe máy không có biển kiểm soát và H không nhớ các thông tin đăng ký của chiếc xe nên Cơ quan điều tra không thể thu giữ được chiếc xe máy nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38; Điều 50; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/01/2023. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao xi măng nhãn hiệu Điện Biên; 01 đoạn dây nhựa màu vàng cam dài 69 cm; 01 túi nilon màu xanh và 02 túi nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Tè với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè được lập vào hồi 16 giờ 20 phút ngày 19 tháng 5 năm 2023)

4. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về