Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn L, sinh năm 1994 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th (đã chết) và bà Trần Thị S; vợ, con: Không; tiền sự: Không; Tiền án có 01: Bản án số 43/2020/HSST ngày 25/8/2020 Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, trị giá tài sản 916.000đ, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/03/2021, hiện chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 25/8/2019, Công an huyện Vĩnh Tường xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/10/2021 (có mặt);

2. Nguyễn Văn M, sinh năm 1980 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị T; có vợ là Dương Thị T (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2005;

Tiền án có 07:

+ Bản án số 59/2010/HSST ngày 16/7/2010, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản, phạm tội ngày 25/6/2010, trị giá tài sản 500.000đ (do có 01 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản).

+ Bản án số 37/2011/HSST ngày 29/3/2011, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 06/3/2011, trị giá tài sản 300.000đ.

+ Bản án số 63/2012/HSST ngày 28/5/2012, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 29/4/2012, trị giá tài sản 300.000đ.

+ Bản án số 41/2014/HSST ngày 29/8/2014, Toà án nhân dân huyện Tam Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 05/8/2014, trị giá tài sản 1.200.000đ.

+ Bản án số 16/2017/HSST ngày 28/4/2017, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 16/02/2017, trị giá tài sản 3.000.000đ.

+ Bản án số 02/2019/HSST ngày 14/01/2019, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 16/10/2018, trị giá tài sản 300.000đ.

+ Bản án số 32/2020/HSST ngày 30/6/2020, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phạm tội ngày 28/02/2020, trị giá tài sản 793.000đ.

Tiền sự có 01: Ngày 24/02/2020, Chủ tịch UBND huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính số 282/QĐ-UBND bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi tàng trữ trái phép pháo, đến nay chưa nộp phạt.

Nhân thân:

+ Ngày 23/3/2004, Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

+ Ngày 13/8/2018, Chủ tịch UBND huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi Đánh bạc.

+ Ngày 29/11/2021, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 05 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hiện nay bản án chưa có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo đang bị tạm giam trong một vụ án khác (có mặt);

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Cúc P, sinh năm 1992; trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Doãn Văn H, sinh năm 1986; trú tại: Thôn L, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

+ Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990; trú tại: Thôn X, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 06h00’ ngày 31/08/2021, Nguyễn Văn L mượn xe máy nhãn hiệu Dream biển kiểm soát 34K6-X của anh Nguyễn Văn Q rồi đi đến nhà Nguyễn Văn M. Do đang lên cơn thèm chất ma túy nên L hỏi M:“Có tiền không, đi làm tí?”, M hiểu ý L rủ đi mua ma túy nhưng không có tiền nên trả lời: “Không có”. Sau đó, L rủ M đi lang thang xem ai có tài sản sơ hở để trộm cắp thì M đồng ý. L điều khiển xe máy trên chở M đi lang thang rồi đi đến ngôi nhà đang xây dựng của chị Nguyễn Thị Cúc P, lúc này khoảng 06h20’ cùng ngày, L phát hiện ở chân cầu thang tầng 1 nhà chị P có dựng 01 chiếc thang sắt tự chế, loại thang chữ A khi gập đôi lại dài khoảng 3m, làm bằng sắt ống có đường kính 3cm. Quan sát thấy không có người trông giữ nên L dừng xe trên đường cách nhà chị P khoảng 20m, vẫn ngồi trên xe nổ máy để cảnh giới còn M đi vào trong nhà chị P trộm cắp chiếc thang sắt rồi L chở M vác chiếc thang sắt trên đến bán cho cửa hàng thu mua bán sắt vụn của anh Doãn Văn H được 145.000đ. Sau đó L chở M đi mua ma túy và sử dụng hết. Cùng ngày, chị P có đơn trình báo đến Công an huyện Lập Thạch.

Ngày 07/09/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch có Kết luận số 514/KL-HĐĐG kết luận: 01 chiếc thang sắt được định giá 300.000đ.

Đối với Nguyễn Văn M, sau khi phạm tội bỏ trốn đến 17/9/2021 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện Lập Thạch khởi tố, bắt tạm giam và ngày 29/11/2021, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 05 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về vật chứng vụ án: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 34K6-X, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Q, do xe máy đã cũ nát nên anh Q tự nguyện không đề nghị nhận lại; 01 chiếc thang sắt của chị Nguyễn Thị Cúc P, anh H đã bán cho người thu mua sắt vụn không biết tên địa chỉ nên không thu giữ được, quá trình điều tra chị P tự nguyện không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M đã khai nhận rõ toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung nêu trên.

Bản Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 29/11/2021, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn L và đồng phạm đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Văn L và đồng phạm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L và đồng phạm phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn L từ 10 tháng đến 13 tháng tù.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn M từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Không phạt bổ sung; Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Văn L nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

Bị cáo Nguyễn Văn M nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người liên quan, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá tài sản …. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định:

Nguyễn Văn L rủ và được Nguyễn Văn M đồng ý đi trộm cắp tài sản nên khoảng 06 giờ 20 phút ngày 31/8/2021, L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 34K6-X chở M đi lang thang xem ai có sở hở thì trộm cắp tài sản. Khi đến ngôi nhà đang xây của chị Nguyễn Thị Cúc P tại thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, M lấy trộm 01 chiếc thang chữ A ở chân cầu thang tầng 01. Giá trị tài sản trộm cắp là 300.000 đồng.

Các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M đều có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, trong đó Nguyễn Văn L có 01 tiền án, Nguyễn Văn M có 07 tiền án. Vì vậy hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác do bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá … dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

b) Đã bị kết án về tội này…, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.” Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, xong hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy việc đưa các bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Văn L là người khởi xướng việc trộm cắp, bản thân bị cáo đã từng bị đưa ra xét xử và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản đó là ngày 25/8/2020 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, do bị cáo đã bị áp dụng tình tiết định tội nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này đối với bị cáo; ngày 25/8/2019, Công an huyện Vĩnh Tường xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản mặc dù đã được xóa tiền sự này nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội điều đó chứng tỏ bị cáo luôn không chấp hành pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên bị cáo phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Bị cáo Nguyễn Văn M sau khi được bị cáo Nguyễn Văn L rủ trộm cắp tài sản và được M đồng ý, thực hiện rất tích cực, bị cáo là người trực tiếp vào lấy trộm tài sản. Bản thân bị cáo đã bị xét xử nhiều lần đó là: Ngày 16/7/2010, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/3/2011, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 28/5/2012, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/8/2014, Toà án nhân dân huyện Tam Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 28/4/2017, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 14/01/2019, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản’; ngày 30/6/2020, Toà án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Các lần phạm tội này, bị cáo chưa được xóa án tích, do bị cáo đã bị áp dụng tình tiết định tội nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này đối với bị cáo. Ngoài ra, ngày 24/02/2020, Chủ tịch UBND huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi tàng trữ trái phép pháo; ngày 23/3/2004, Công an huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý; ngày 13/8/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền vì có hành vi Đánh bạc; ngày 29/11/2021 Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt 05 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, hiện nay bản án này chưa có hiệu lực pháp luật. Từ năm 2010 đến nay bị cáo liên tiếp thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án điều đó chứng tỏ bị cáo là người luôn không chấp hành pháp luật. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những phân tích, đánh giá nêu cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục để các bị cáo trở thành một người có ích cho xã hội.

[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Bản thân các bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản gì nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị Cúc P không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 34K6-X là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Q, anh Q tự nguyện không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.

[7]. Đối với anh Nguyễn Văn Q là người đã cho L mượn xe máy nhưng không biết L sử dụng làm phương tiện phạm tội và anh Doãn Văn H là người đã mua chiếc thang sắt, xác định khi trao đổi mua bán anh H không biết là tài sản do M và L phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[8]. Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 08/10/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu bán sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô có biển kiểm soát 34K6- X.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/11/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch và Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2021/HS-ST

Số hiệu:79/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về