TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 77/2017/HS-ST NGÀY 12/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12/7/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2017/TLST - HS ngày 13/3/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2017/QĐXXST - HS ngày 17/3/2017; Thông báo mở lại phiên tòa số: 03/2017/TB - TA ngày 29/6/2017 đối với bị cáo:.
1. Mai Thị L, sinh năm 1986
Nơi ĐKHKTT: Tổ 18 phường Tân Phong thành phố Lai Châu tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Khu 6 thị trấn TU, huyện TU, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Mai Văn T, sinh năm 1960 (đã chết); Con bà: Đoàn Thị P, sinh năm 1964, trú tại xóm 12 xã GA, huyện G, tỉnh Nam Định; Chồng: Trần Xuân N, sinh năm 1985 và có 01 con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/12/2016, đến ngày 23/12/2016 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt).
2. Người bị hại: Anh Đỗ Thanh C - Sinh năm: 1987
Trú tại: Khu 7b thị trấn TU, huyện TU, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 19/12/2016, Mai Thị L đi đến cây rút tiền ATM của Phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Chi nhánh Than Uyên thuộc khu 3 thị trấn Than Uyên huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, mục đích để kiểm tra số tiền có trong tài khoản của L. Khi đến cây ATM, L thấy có 01 người đang rút tiền (xác định được là anh Đỗ Thanh C, trú tại khu 7B thị trấn Than Uyên huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu). L đứng ngoài cửa đợi một lúc thì anh C rút xong. Khi L đi vào trong cây ATM, nhìn trên màn hình thấy hiển thị dòng chữ “Giao dịch đã thành công bạn có muốn thực hiện giao dịch khác không?”. Mai Thị L biết anh C để quên thẻ trong cây ATM và lúc đó anh C đã về. L nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền trong thẻ ATM của anh C và đã ấn vào nút “Có”, màn hình hiển thị dòng chữ “Mời quý khách chọn giao dịch”. L tiếp tục ấn vào nút“rút tiền”, màn hình hiển thị dòng chữ “Vui lòng chọn tài khoản”. L ấn vào nút “Mặc định”, màn hình tiếp tục hiển thị dòng chữ “Vui lòng chọn số tiền”. L lựa chọn ấn vào nút “1.000.000 VNĐ”, màn hình hiển thị dòng chữ “Bạn có muốn lấy biên lai giao dịch không”, L ấn vào nút “có”. Lúc này cây ATM nhả số tiền 1.000.000 đồng cùng một biên lai giao dịch. L cầm tiền cho vào trong túi áo rồi lấy biên lai lên xem, thấy trong tài khoản của anh C vẫn còn tiền. Mai Thị L bỏ biên lai vào sọt rác và tiếp tục thực hiện các thao tác và rút tiền trong tài khoản của anh C, chiếm đoạt thêm số tiền 2.000.000 đồng. Khi L rút xong số tiền 2 triệu đồng thì có người đi xe máy đến để rút tiền nên L ấn vào nút ngừng giao dịch, cây ATM đẩy thẻ ra ngoài. Mai Thị L cầm số tiền 3 triệu đồng cùng thẻ ATM của anh C mang về nhà tại khu 6 thị trấn Than Uyên và không thực hiện việc kiểm tra số tiền trong tài khoản của mình nữa.
Đối với anh Đỗ Thanh C, sau khi phát hiện quên thẻ tại cây ATM và biết có người khác rút trộm tiền do nhận tin báo giao dịch qua điện thoại di động, anh C đã đến trình báo với cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên.
Đến sáng ngày 20/12/2016, Mai Thị L đến quầy giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện Than Uyên tại khu 2 thị trấn Than Uyên gặp giao dịch viên Đỗ Quang Huy để kiểm tra tài khoản của anh Đỗ Thanh C. L đọc số tài khoản của anh C ghi trên tờ biên lai mà L đã rút tiền của anh C ngày 19/12/2016 cho anh Huy kiểm tra. Anh Huy thông báo trong tài khoản của anh C còn 41.978.000 đồng. L tiếp tục hỏi anh Huy số chứng minh thư của anh C và ghi vào tờ giấy, sau đó L ra về. Đến 16 giờ ngày 20/12/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Mai Thị L về hành vi “Trộm cắp tài sản”. L đã giao nộp cho cơ quan điều tra 01 thẻ ATM.AGRIBANK và số tiền 3.000.000 đồng đã chiếm đoạt của anh C cùng 01 biên lai rút tiền.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử L vật chứng số trao trả thẻ ATM cùng số tiền 3.000.000 đồng cho bị hại anh Đỗ Thanh C;
Tại bản cáo trạng số: 21/KSĐT - SH Ngày 09/3/2017 của Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Than Uyên đã truy tố bị cáo Mai Thị L về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 điều 138 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Mai Thị L đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để quên thẻ ATM trong cây rút tiền của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, sau đó rút số tiền 3.000.000 đồng trong thẻ của anh Đỗ Thanh C. Đối chiếu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thì hành vi của bị cáo Mai Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh cũng như điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 138, điểm h, p khoản 1 điều 46, điều 60 - Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo Mai Thị L từ 02 năm 02 năm 06 tháng tù;
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 138 Bộ luật hình sự đối với đối với bị cáo, và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa ngày hôm nay người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, và có ý kiến đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập giải quyết.
Bị cáo không bổ sung ý kiến gì thêm và nhất trí với bản cáo trạng, luận tội và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái và thấy hối hận về hành vi phạm tội của mình, rất mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 19/12/2016 Mai Thị L đi kiểm tra thẻ tại cây ATM của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam có chi nhánh tại khu 3 thị trấn Than Uyên huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, khi đến cây ATM thì L đứng chờ cho anh C giao dịch xong mới đến lượt mình. Tuy nhiên anh C giao dịch xong thì ra về luôn quên không rút thẻ, tiếp đó L bước vào và nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trong thẻ của anh C. L thực hiện giao dịch ấn nút “ rút tiền” hai lần rút tổng số tiền là 3.000.000 đồng. L đã lợi dụng việc sơ hở là anh C quên thẻ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, chiếm đoạt số tiền 3.000.000 đồng của anh Đỗ Thanh C.
Đánh giá hành vi của bị cáo HĐXX nhận thấy: Bị cáo Mai Thị L đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bị cáo thực hiện hành vi hoàn thành là đã rút được số tiền 3.000.000 đồng trong thẻ của anh C. Lẽ ra bị cáo thấy anh C để quên thẻ trong cây ATM bị cáo có thể lựa chọn cách xử xự khác như mang thẻ đó đến Ngân hàng để nhờ trả lại cho chủ sở hữu, nhưng bị cáo lại thực hiện hành vi chiếm đoạt dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Như vậy hành vi của Mai Thị L đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 138- Bộ luật hình sự.
Đánh giá về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo coi thường pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Người bị hại Đỗ Thanh C có đơn xin xét xử vắng mặt, về phần trách nhiệm dân sự anh C đã được nhận lại số tiền 3.000.000 đồng mà bị cáo chiếm đoạt nên anh không đề nghị gì về phần dân sự, về trách nhiệm hình sự đề nghị xét xử bị cáo đúng quy định của pháp luật.
Xét về nhân thân: Bản thân bị cáo sống tại địa phương chưa vi phạm pháp luật lần nào, cũng chưa bị cơ quan có thầm quyền nào xử lý, cơ quan điều tra cũng xác minh bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giáo dục tại xã phường cũng đủ răn đe bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng tạo cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm của mình để làm một công dân tốt.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại toà đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử sẽ xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 - Bộ luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Xét về điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, nên miễn hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 điều 138 Bộ luật hình sự là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng: Ngày 03/7/2017 Tòa án yêu cầu trích xuất vật chứng 01 biên lai giao dịch thẻ ATM của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam là chứng cứ của vụ án để lưu hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Xét thấy người bị hại không yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.
Về những vấn đề khác: Tòa án nhân dân huyện Than Uyên ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2017/QĐXXST - HS ngày 17/3/2017 đối với bị cáo Mai Thị L. Ngày 30/3/2017 Tòa án đưa vụ án ra xét xử, sau đó Mai Thị L không có mặt tại địa phương. Hội đồng xét xử quyết định tạm đình chỉ vụ án và đề nghị Cơ quan CSĐT Công an huyện Than Uyên Quyết định truy nã đối với bị cáo. Ngày 11/6/2017 bị cáo ra đầu thú tại phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lai Châu, ngày 12/6/2017 Tòa án nhân dân huyện Than Uyên ban hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo, và Quyết định phục hồi vụ án số: 01/2017/QĐPHVA ngày 13/6/2017 đến ngày 29/6/2017 Tòa án nhân dân huyện Than Uyên thông báo mở lại phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo trong thời hạn luật định.
Về án phí hình sự sơ thầm: Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Mai Thị L phạm tội "Trộm cắp tài sản".
1. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm h, p khoản 1 điều 46, điều 60 - Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Mai Thị L 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày 12/7/2017.
Giao bị cáo Mai Thị L cho Ủy ban nhân dân thị trấn Than Uyên huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu có trách nhiệm giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
2. Về án phí: Áp dụng điều 99- Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2017/HS-ST
Số hiệu: | 77/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về