Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

 BẢN ÁN 76/2021/HS - ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2021/TLST - HS ngày 12 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Duy C, sinh năm 1990 tại xã B, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn L, xã B, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Duy K và bà Hoàng Thị K1; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 142/QĐ - XPVPHC ngày 29/8/2016 của công an tỉnh Hải Dương đã xử phạt C 750.000 đồng về hành vi “mua dâm”. Ngày 31/8/2016 C chấp hành xong quyết định. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/7/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1981 và chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1987; đều trú tại: Số 14, đường SV, khu dân cư Th, phường S, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương. Đều vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1983; trú tại: Khu dân cư M, phường CM, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Thành Tr, sinh năm 1983; trú tại: Khu dân cư N, phường S, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Những người làm chứng:

+ Anh Bùi Trọng T2, sinh năm 1984; trú tại: Khu dân cư K, phường V, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương;

+ Ông Nguyễn Tư Kh, sinh năm 1960; trú tại: trú tại: Khu dân cư B - T, phường C, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương.

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 27/4/2021 đến ngày 29/6/2021, Vũ Duy C liên tiếp thực hiện 02 hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng 10 giờ ngày 27/4/2021, Vũ Duy C đi bộ đến quán cầm đồ, sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Tiến T ở địa chỉ: Số 14, đường SV, KDC Th, phường S, thành phố Ch, Hải Dương mục đích hỏi mua điện thoại. Khi đến quán C đi vào trong quán thì không thấy ai, qua lớp cửa kính C quan sát thấy anh T đang nằm ôm con ngủ trên võng tại phòng khách. C quay người để đi về thì nhìn thấy 01 chiếc điện thoại Iphone 7, bản lock, màu hồng, số Imei: 355340084168021, gắn ốp cao su trong suốt, viền màu đen, bên trong lắp sim số 0979557663 là của anh Nguyễn Tiến T và chị Nguyễn Thị Thu H đang sạc pin để trên mặt bàn máy vi tính tại quầy bán hàng. C nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. C dùng tay rút chiếc điện thoại ra khỏi sạc và cất vào túi quần đang mặc rồi đi đến quán sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Thành Tr; địa chỉ: Số 1, khu dân cư N, phường S, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương để bán. Anh Tr không biết chiếc điện thoại do C chiếm đoạt mà có và đã mua chiếc điện thoại với giá 300.000 đồng. Anh Tr tháo sim điện thoại số 0979.557.663 lắp trong máy điện thoại ra đưa cho C, trên đường về nhà Cường đã làm rơi chiếc sim điện thoại trên. Đến ngày 24/5/2021, Vũ Duy C đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KLĐG ngày 18/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố Chí Linh kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 7, màu hồng, bản lock, số Imei: 355340084168021, đã qua sử dụng, có trị giá 2.100.000 đồng; Chi phí làm lại sim viettel số: 0979557663 có trị giá 25.000 đồng; 01 vỏ ốp điện thoại Iphone 7, làm bằng cao su trong suốt, viền màu đen, đã qua sử dụng trị giá 40.000 đồng. Tổng giá trị của các tài sản tại thời điểm ngày 27/4/2021 là 2.165.000 đồng.

Vụ thứ 2: Khoảng 15 giờ ngày 29/6/2021 Vũ Duy C đi đến công ty Cổ phần Thương mại Đ, địa chỉ: Khu dân cư M, phường CM, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương với mục đích để hỏi xin việc. Khi đến nơi C đi vào cổng công ty thì thấy trong nhà bảo vệ của công ty cửa phòng mở, bên trong phòng không có người nên C nảy sinh ý định vào trong phòng xem có gì chiếm đoạt được để bán lấy tiền tiêu. Khi vào phòng bảo vệ C quan sát thì thấy chiếc bàn làm việc kê trong phòng có nhiều ngăn kéo, C dùng tay kéo mở ngăn ngoài cùng bên phải thì thấy có 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7, màu đen, số imei 1: 353465100210515, số imei 2: 353466100210513, gắn vỏ ốp lưng màu vàng, bên trong lắp sim điện thoại số: 0366933311 của anh Nguyễn Văn T1 đang sạc pin. C đi ra ngoài gặp anh Bùi Trọng T2 để hỏi xin việc. Sau đó C lại đi vào trong phòng bảo vệ và dùng tay rút chiếc điện thoại ra khỏi sạc pin và cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi ra ngoài. Khi vừa đi ra khỏi phòng bảo vệ thì C gặp anh Bùi Trọng T2 là bảo vệ công ty, anh T2 có hỏi C lý do tự ý vào phòng bảo vệ thì C nói rằng vào phòng xin nước uống. Sau đó C đi vào khu nhà vệ sinh của nhà hàng 559 gần với công ty. Anh Bùi Trọng T2 gọi anh Nguyên Văn T1 về nhà bảo vệ kiểm tra thì anh Nguyễn Văn T1 phát hiện mất điện thoại. Anh Bùi Trọng T2 và anh Nguyễn Văn T1 đi sang nhà hàng 559 tìm C. Thấy bị phát hiện nên C đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt điện thoại và lấy chiếc điện thoại trong túi quần trả lại anh Nguyễn Văn T1.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 34/KLĐG ngày 05/7/2021 kết luận: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7, màu đen, số imei 1: 353465100210515, số Imei 2: 353466100210513, đã qua sử dụng, có giá trị là 2.400.000 đồng; Chi phí làm lại sim viettel số: 0366933311 là 25.000 đồng; 01 vỏ ốp điện thoại Samsung Galaxy A7 làm bằng cao su màu vàng, đã qua sử dụng trị giá 20.000 đồng. Tổng giá trị của các tài sản tại thời điểm ngày 29/6/2021 là 2.445.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Vũ Duy C chiếm đoạt 02 lần là 4.610.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 61/CT- VKS - CL ngày 09/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố Vũ Duy C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên, thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với mình là đúng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Duy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 20/7/2021; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết; về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 27/4/2021, tại quán cầm đồ, sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Tiến T ở số nhà 14, đường SV, khu dân cư Th, phường S, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương, Vũ Duy C có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Tiến T và chị Nguyễn Thị Thu H 01 chiếc điện thoại Iphone 7, bản lock, màu hồng, số Imei:

355340084168021, gắn ốp cao su trong suốt, viền màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim điện thoại số: 0979557663, có tổng giá trị là: 2.165.000 đồng. Khoảng 15 giờ ngày 29/6/2021 tại phòng bảo vệ của Công ty Cổ phần Thương mại Đ, địa chỉ: Khu dân cư M, phường CM, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương, Vũ Duy C có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn T1 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7, màu đen, số imei 1: 353465100210515, số imei 2: 353466100210513, gắn vỏ ốp màu vàng, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim điện thoại số: 0366933311, có tổng giá trị là 2.445.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Vũ Duy C chiếm đoạt 02 lần là 4.610.000 đồng.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội và bức xúc trong nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện vì mục đích tư lợi. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 4.610.000 đồng. Do vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu: Ngày 29/8/2016 Vũ Duy C bị Công an tỉnh Hải Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “mua dâm”, đến ngày 31/8/2016 C chấp hành xong quyết định. Trong khoảng thời gian từ 27/4/2021 đến 29/6/2021 bị cáo C liên tiếp thực hiện 02 hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trị giá tài sản mỗi lần bị cáo chiếm đoạt đều đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận tội; sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 27/4/2021, bị cáo đã ra đầu thú; những bị hại đều đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã thực hiện để trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Những bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều đã nhận lại tài sản của mình và không yêu cầu về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh đã trả lại vật chứng gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 7, bản lock, màu hồng, gắn ốp cao su trong suốt, viền màu đen, bên trong lắp sim điện thoại số: 0979557663; 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7, màu đen, gắn vỏ ốp màu vàng, bên trong lắp sim điện thoại số: 0366933311 cho chủ sở hữu, quản lý là phù hợp nên không đặt ra xử lý.

[9] Anh Nguyễn Thành Tr là người mua chiếc điện thoại Iphone 7 của C, nhưng không biết nguồn gốc chiếc điện thoại do C phạm tội mà có nên không xem xét xử lý là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Vũ Duy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Vũ Duy C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 20/7/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Duy C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2021/HS-ST

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về