Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 13/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 13 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2023/TLST- HS ngày 30 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2023/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Hầu Văn C, sinh ngày 13/01/2006 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã G, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Cao Lan; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Hầu Văn T, sinh năm 1980 và bà Đàm Thị L, sinh năm 1980; Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/02/2023 đến ngày 11/5/2023 do nhiều lần vi phạm nghĩa vụ cam kết đã bị thay thế và áp dụng biện pháp bắt tạm giam từ ngày 11/5/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sơn Dương (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Đàm Thị L, sinh năm 1980, địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; là mẹ đẻ của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ng - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

- Bị hại: Anh Đàm Văn M, sinh năm 1993, địa chỉ: Thôn Đ, xã G, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 03/01/2023, Hầu Văn C đến nhà Đàm Văn M (là cậu của C) để chơi, nhưng không có người ở nhà, C phát hiện có chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22S1 - X.14, màu đen, nhãn hiệu Honda Wave Alpha dựng ở hè nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. C đi vào bếp để tìm chìa khoá xe nhưng không thấy, C đi đến giường ngủ ở bếp lấy chìa khoá trên đỉnh màn mở cửa nhà vào phòng ngủ của M lấy chìa khoá xe mô tô ở trên giường, ra mở khóa nổ máy, điều khiển xe đến quán internet trước cổng Trường THPT xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương. Tại đây, C gặp và nhờ Lại Nguyên G1 đưa đi cầm cố xe mô tô, nếu được sẽ cho G1 300.000 đồng. G1 đồng ý, đưa C đến nhà Đỗ Văn A1, C lấy giấy tờ xe ở trong cốp xe đưa cho A1 cầm cố chiếc xe mô tô được 9.000.000 đồng, A1 tính lãi đến ngày 25/01/2023 là 1.000.000 đồng, đến ngày 25/01/2023 C muốn chuộc lại xe thì phải trả cho A1 10.000.000 đồng (thỏa thuận bằng miệng, không có giấy tờ gì). Số tiền cầm cố xe C đã cho G1 300.000 đồng, số tiền còn lại C đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 31/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu sơn đen bạc, biển số đăng ký 22S1- X.14 tính đến thời điểm bị trộm cắp có giá trị là 18.500.000đ (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, biển số đăng ký 22S1-X.14 màu đen bạc; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe mô tô. Ngày 28/4/2023 đã trả lại tài sản trên cho Đàm Văn M là chủ sở hữu.

Về dân sự: Ngày 19/02/2023, Bà Đàm Thị L (mẹ của C) đã bồi thường cho Đỗ Văn A1 số tiền 9.000.000 đồng. Đỗ Văn A1 không có yêu cầu đề nghị gì. Anh Đàm Văn M và bà Đàm Thị L không có yêu cầu đề nghị gì.

Tại Cáo trạng số 83/CT-VKSSD, ngày 29/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố: Hầu Văn C về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hầu Văn C theo tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Tuyên bố bị cáo Hầu Văn C phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 90, 91, 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Hầu Văn C từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 11/5/2023.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị hại trình bày: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bà Đàm Thị L: Do tuổi đời cháu còn trẻ, chưa đủ 18 tuổi, suy nghĩ chưa chín chắn nên nhất thời phạm tội, đề nghị HĐXX cho cháu hưởng mức án thấp nhất.

Bà Nguyễn Thị Nguyệt - Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 90, 91, 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hầu Văn C mức khởi điểm theo đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm bào chữa của Người bào chữa cho bị cáo; bị cáo không có ý kiến tham gia tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Hầu Văn C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại cùng toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 03/01/2023, Hầu Văn C (16 tuổi 11 tháng 20 ngày) đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, biển số đăng ký 22S1- X.14 trị giá 18.500.000đ (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Đàm Văn M.

Hành vi của bị cáo Hầu Văn C đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Với mục đích vụ lợi và bản tính ham chơi, lười lao động bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và trực tiếp xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác. Bị cáo tuổi đời còn rất trẻ, chưa đủ 18 tuổi nhưng nhiều lần vi phạm nghĩa vụ cam đoan khiến các cơ quan tố tụng phải thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo từ Cấm đi khỏi nơi cư trú sang tạm giam, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. HĐXX xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung. Mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

Xét bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, biển số đăng ký 22S1-X.14 màu đen bạc; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe mô tô. Ngày 28/4/2023 đã trả lại tài sản trên cho anh Đàm Văn M là chủ sở hữu. Do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đàm Văn M đã nhận lại tài sản không yêu cầu đề nghị gì thêm. Bà Đàm Thị L đã thay bị cáo bồi thường cho anh Đỗ Văn An số tiền là 9.000.000 đồng. Anh An không đề nghị bị cáo phải bồi thường gì thêm. Bà Đàm Thị L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì cho bà. Do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với Lại Nguyên G1 khi được Hầu Văn C nhờ và đưa đi cầm cố xe mô tô, nhưng không biết là tài sản do trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý.

Đối với Đỗ Văn An khi cầm cố xe mô tô cho Hầu Văn C, không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý. Hành vi cầm cố xe mô tô không có giấy phép kinh doanh. Cơ quan điều tra chuyển tài liệu đến Công an huyện Sơn Dương để xử phạt hành chính đối với An, nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hầu Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hầu Văn C 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 11/5/2023.

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về