Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 72/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/TLST-HS, ngày 25 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Thái B, sinh năm: 1995; Nơi sinh: Tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố Lương Tây, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12. Nghề nghiệp: Không; cha: Trần Văn Luận, sinh năm: 1968; mẹ: Lê Thị Liên, sinh năm: 1971; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 26/6/2020, bị cáo bị Công an thị trấn Lương Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi: "Trộm cắp tài sản", Bị cáo Bảo đã đóng tiền nộp phạt; bị cáo tại ngoại có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Th, sinh năm 1984 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Bình Sơn, xã Bình Tân, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

2. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Bình Nghĩa, xã Bình Tân, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

3. Bà Nguyễn Thị Kim Q, sinh năm 1949 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Bình Nhơn, xã Bình Tân, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Quốc Th, sinh năm 1986 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố Xuân An 2, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

2. Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1983 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Hòa Bình, xã Sông Lũy, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

3. Anh Trần Hữu Th, sinh năm 1967 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Thái Bình, xã Hồng Thái, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lần 1: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 27/8/2020, bị cáo Trần Thái B điều khiển xe mô tô biển số 49V3-7107 đi từ thành phố Phan Thiết để về nhà ở khu phố Lương Tây, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận trên Quốc lộ 1A. Khi đến đoạn mở gần UBND xã Bình Tân, huyện Bắc Bình nhìn thấy bên ngoài Gara Thuận Thảo có tường rào lưới B40, bên trong Gara Thuận Thảo có để 01 chiếc bình ắc quy màu trắng, hiệu GN N100, loại 100 ampe của Nguyễn Quốc Th đã giao cho Nguyễn Th (chủ Gara Thuận Thảo) quản lý. Bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm chiếc bình ắc quy trên nên bị cáo bị cáo Bảo chạy xe mô tô đến sát tường rào lưới B40 của Gara Thuận Thảo rồi dừng xe, bị cáo Bảo trèo qua cổng vào bên trong Gara Thuận Thảo, bị cáo bê chiếc bình ắc quy để lên vai rồi đi đến nơi tường rào lưới B40 (tường rào cao tầm 1,4 mét), bị cáo Bảo đẩy vai cho chiếc bình ắc quy rớt qua tường rào lưới B40, sau đó bị cáo Bảo trèo qua cổng ra bên ngoài. Bị cáo bê chiếc bình ắc quy để lên baga trước xe mô tô rồi điều khiển xe mô tô chạy đến vựa thu mua phế liệu của Nguyễn Đức H ở thôn Hòa Bình, xã Sông Lũy, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Lúc này khoảng 02 giờ sáng cùng ngày, vựa thu mua phế liệu của Hậu đã đóng cửa, bị cáo Bảo dừng xe và bê chiếc bình ắc quy bỏ xuống đất rồi kêu Hậu thì Hậu ra mở cửa, nhìn thấy chiếc bình ắc quy để dưới đất, Hậu không nói gì mà đi vào bên trong lấy tiền ra đưa cho bị cáo số tiền 270.000 đồng. Bị cáo cầm lấy số tiền 270.000 đồng rồi điều khiển xe chạy về nhà. Sau đó, Bị cáo nhờ một người bạn nghiện (không rõ lai lịch) mua giúp 200.000 đồng ma túy để sử dụng, số tiền còn lại Bị cáo Bảo tiêu xài cá nhân.

Theo Kết luận định giá tài sản số 84b/2020/HĐĐG-TTHS ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Bình, kết luận: 01 (một) Bình ắc quy màu trắng, hiệu GS N100, mã số 0604099320171, loại 100 ampe, mua vào ngày 27/11/2019, nguyên giá 1.800.000 đồng, số lượng 01 cái, tỷ lệ sử dụng còn lại: 70%, thành tiền 1.260.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 08/9/2020, bị cáo Bảo điều khiển xe mô tô biển số 49V3-7107 đến tiệm sửa xe mô tô (không rõ bảng hiệu) ở xã Bình Tân để sửa xe mô tô trên, đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày thì Bị cáo sửa xe xong và điều khiển xe chạy về nhà trên Quốc lộ 1A hướng Phan Thiết đi Phan Rang. Khi bị cáo vừa điều khiển xe chạy khoảng 100 mét thì bị cáo nhìn thấy bên phải cùng chiều hướng bị cáo chạy có quán cơm Quốc Hào 2, trong sân quán có để 03 (ba) thùng thuốc bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT của Nguyễn Văn C nên bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm, bị cáo điều khiển xe chạy vào trong sân quán cơm Quốc Hào 2 đến nơi để 03 (ba) thùng thuốc bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT, Bị cáo bê 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT để lên yên xe sau rồi điều khiển xe chạy đến siêu thị Minimart ở Lương Sơn thì dừng xe lại, bị cáo bê thùng thuốc bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT bỏ lên baga trước rồi điều khiển xe chạy đến tiệm thuốc bảo vệ thực vật Du Thành do ông Trần Hữu Th làm chủ. Bị cáo gặp ông Thành và nói với ông Thành: “chú đổi cho con thùng thuốc”, ông Thành kiểm tra rồi lấy số tiền 400.000 đồng đưa cho bị cáo, bị cáo cầm lấy số tiền 400.000 đồng rồi điều khiển xe chạy về nhà, bị cáo nhờ một người bạn nghiện (không rõ lai lịch) mua giúp cho bị cáo 300.000 đồng ma túy để sử dụng, số tiền còn lại bị cáo tiêu xài cá nhân.

Theo Kết luận định giá tài sản số 84a/2020/HĐĐG-TTHS ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Bình, kết luận: 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT, trong thùng có 20 (hai mươi) gói thuốc hiệu TOXBAIT, mỗi gói có trọng lượng là 01kg, mua vào ngày 07/9/2020, nguyên giá 34.000 đồng/gói, số lượng 20 gói, thành tiền 680.000 đồng.

Lần 3: Vào khoảng 05 giờ 00 phút bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 49V37107 đi đến xã Bình Tân với mục đích mượn tiền của một người quen tên Tư (không rõ lai lịch). Khi đến nhà thì không gặp Tư nên bị cáo điều khiển xe chạy về nhà, bị cáo vừa điều khiển xe chạy được khoảng 100 mét thì bị cáo nhìn thấy bên đường có một ngôi nhà đang xây dựng của Nguyễn Thị Kim Q, trong khuôn viên ngôi nhà để nhiều sắt xây dựng không có ai trong coi, bị cáo dừng xe và đi vào bên trong khuôn viên ngôi nhà lấy trộm 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8, 01(một) bóng đèn điện gắn liền cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mm. Bị cáo nhặt 01(một) vỏ bao xi măng rồi lấy bóng đèn điện gắn liền đoạn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mm bỏ vào. Bị cáo mang 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 để lên yên sau xe mô tô rồi lấy dây thun ràng đồ có sẵn trên xe buộc lại, bị cáo bỏ vỏ bao xi măng lên ba ga trước rồi điều khiển xe chạy về. Trên đường đi bị cáo dừng lại và lấy bóng đèn điện vứt bỏ rồi tiếp tục điều khiển xe chạy đến nhà Nguyễn Đức H, bị cáo dừng xe và bỏ vỏ bao xi măng bên trong có cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mm xuống đất rồi nói với Hậu: “em bán sắt”, Hậu không nói gì mà đi vào bên trong lấy cân ra nơi bị cáo đứng, bị cáo mở dây thun ràng đồ rồi lấy 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 bỏ lên cân, sau khi cân xong Hậu đưa cho bị cáo số tiền 320.000 đồng. Bị cáo cầm lấy số tiền 320.000 đồng rồi điều khiển xe chạy về nhà, vỏ bao xi măng bên trong có cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mm Bị cáo bỏ quên tại tiệm thu mua phế liệu của Hậu. Số tiền này bị cáo đã nhờ bạn nghiện mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân.

Theo Kết luận định giá tài sản số 84b/2020/HĐĐG-TTHS ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Bình, kết luận: 01 (một) bóng đèn điện (không rõ bao nhiêu vôn, không rõ hiệu gì, không rõ thời điểm mua), tài sản không thu giữ được nên Hội đồng định giá chưa đủ căn cứ để tiến hành định giá. 01 (một) cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mmm, không rõ thời điểm mua, tài sản không thu giữ được nên Hội đồng định giá chưa đủ căn cứ để tiến hành định giá. 01 (một) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 gồm 17 cây sắt, 02 đầu sắt được bẻ cong, mỗi cây dài 1,4m, tổng trọng lượng của bó sắt là 10,6kg, mua vào tháng 8/2020, nguyên giá 13.700 đồng/kg, trọng lượng 10,6 kg, tỷ lệ sử dụng còn lại 90%, thành tiền 130.689 đồng; 01 (một) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 gồm 18 cây sắt, 02 đầu sắt được bẻ cong, mỗi cây dài 1,4m, tổng trọng lượng của bó sắt là 11,2kg, mua vào tháng 8/2020, nguyên giá 13.700 đồng/kg, trọng lượng 11,2 kg, tỷ lệ sử dụng còn lại 90%, thành tiền 138.096 đồng;

01 (một) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 gồm 19 cây sắt, 02 đầu sắt được bẻ cong, mỗi cây dài 1,9m, tổng trọng lượng của bó sắt là 16,45kg, mua vào tháng 8/2020, nguyên giá 13.700 đồng/kg, trọng lượng 16,45 kg, tỷ lệ sử dụng còn lại 90%, thành tiền 202.828 đồng; 01 (một) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 gồm 20 cây sắt, 02 đầu sắt được bẻ cong, mỗi cây dài 1,9m, tổng trọng lượng của bó sắt là 10,6kg, mua vào tháng 8/2020, nguyên giá 13.700 đồng/kg, trọng lượng 17,4 kg, tỷ lệ sử dụng còn lại 90%, thành tiền 214.542 đồng; Tổng trị giá 04 (bốn) bó sắt là 686.164 đồng.

Về tang, vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT, trong thùng có 20 (hai mươi) gói thuốc hiệu TOXBAIT, mỗi gói có trọng lượng là 01kg và 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 đã được bẻ hai đầu có tổng khối lượng 55,65kg. Sau khi định giá tài sản, Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Bình đã giao trả lại 01 (một) thùng thuốc bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT, trong thùng có 20 (hai mươi) gói thuốc hiệu TOXBAIT, mỗi gói có trọng lượng là 01kg cho Nguyễn Văn C và 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 đã được bẻ hai đầu có tổng khối lượng 55,65kg cho Nguyễn Thị Kim Q theo quy định.

Đối với 01 (một) Bình ắc quy màu trắng, hiệu GS N100, mã số 0604099320171, loại 100 ampe, bị cáo khai bán cho Nguyễn Đức H nhưng Hậu không thừa nhận mua chiếc bình ắc quy này của bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác xác định Hậu đã mua chiếc bình ắc quy trên, cho nên Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc bình ắc quy.

Đối với 01 (một) bóng đèn điện và 01 (một) cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mmm Bị cáo Bảo khai đã ném bỏ và để quên tại vựa thu mua phế liệu của Nguyễn Đức H, hiện không biết số tài sản này ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển số 49V3-7107, số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237 và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 49V3-7107 của Trần Thái Bị cáo Bảo dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, Bị cáo Bảo khai mua chiếc xe trên của cặp vợ chồng bán phế liệu (không rõ lai lịch) trên đường đi La Ngà thuộc xã Sông Lũy, huyện Bắc Bình, khi mua xe thì cặp vợ chồng này giao cho Bị cáo Bảo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 49V3-7107. Cơ quan điều tra đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận giám định số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237, kết quả: số khung, số máy trên không bị đục, tẩy xóa. Cơ quan điều tra tiến hành tra cứu số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237, biển số 49V3- 7107 nhưng số khung, số máy, biển số trên không có trong tàng thư của Cơ quan quản lý, đăng ký xe mô tô, xe máy. Cơ quan điều tra đã chuyển 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đen, số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237 vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình để bảo quản, xử lý theo quy định pháp luật.

Riêng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 do Công Thế Văn, chứng minh nhân dân số 250305023 do Công an tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 20/8/1993, thường trú ở 36b, Khe Sanh, phường 10, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Thuận (PC09), kết luận: giấy đăng ký xe mô tô, xe máy trên là thật. Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an phường 10, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Kết quả ủy thác từ Công an phường 10, thành phố Đà Lạt: Ông Văn hiện không còn sinh sống tại địa phương, đang sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không rõ địa chỉ nên chưa làm việc được với ông Văn, vì vậy Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ biển số 49V3-7107 và giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 chờ xác minh, xử lý sau.

Về phần dân sự:

Nguyễn Văn C đã nhận lại 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT và không yêu cầu bồi thường.

Nguyễn Thị Kim Q đã nhận lại 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8, riêng 01 bóng đèn điện và 01 cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mmm bị mất không thu hồi được, Quyên không yêu cầu bồi thường.

Thuận yêu cầu Trần Thái Bị cáo Bảo bồi thường cho Thuận số tiền 2.000.000 đồng theo giá chiếc bình ắc quy mà Thuận đã mua bồi thường cho Thiện, bị cáo Bảo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại Thuận.

Trần Hữu Th và Nguyễn Đức H không yêu cầu Trần Thái Bị cáo Bảo hoàn trả số tiền mà Thành và Hậu đã mua nhầm tài sản trộm cắp.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình giữ nguyên quan điểm tại bản cáo trạng số: 66/CT-VKS.HBB ngày 25 tháng 6 năm 2021 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị tuyên bố bị cáo Trần Thái B phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Trần Thái B từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị xử lý tang, vật chứng của vụ án như sau:

+Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển số 49V3-7107, số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237;

Riêng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ biển số 49V3-7107 và giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 chờ xác minh, xử lý nên đề nghị không xét.

Đối với 01 (một) Bình ắc quy màu trắng, hiệu GS N100, mã số 0604099320171, loại 100 ampe, bị cáo khai bán cho Nguyễn Đức H nhưng Hậu không thừa nhận mua chiếc bình ắc quy này của bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác xác định Hậu đã mua chiếc bình ắc quy trên, cho nên Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc bình ắc quy nên không xem xét.

Đối với 01 (một) bóng đèn điện và 01 (một) cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mmm Bị cáo Bảo khai đã ném bỏ và để quên tại vựa thu mua phế liệu của Nguyễn Đức H, hiện không biết số tài sản này ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu hồi được nên không xem xét.

Về phần dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 589, 246 công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại, theo đó bị cáo Trần Thái B đồng ý bồi thường cho Nguyễn Th số tiền 2.000.000 đồng.

Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Nguyễn Thị Kim Q đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Trần Hữu Th và Nguyễn Đức H không yêu cầu Trần Thái Bị cáo Bảo hoàn trả số tiền mà Thành và Hậu đã mua nhầm tài sản trộm cắp nên đề nghị không xem xét.

Đối với Trần Hữu Th mua 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT với giá 400.000 đồng và Nguyễn Đức H mua 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 với giá 320.000 đồng nhưng Thành và Hậu không biết đây là tài sản trộm cắp và cơ quan điều tra không xử lý nên đề nghị xem xét giải quyết.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đồng ý với luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận và đồng ý bồi thường cho bị hại. Lời nói sau cùng của bị cáo mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Sơn không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa vắng mặt bị hại Cường, Quyên và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Thành nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử theo quy định.

[2] Lời khai của bị cáo Bảo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã xác định: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 27/8/2020, bị cáo Trần Thái B điều khiển xe mô tô biển số 49V3-7107 đi trộm cắp tài sản của Nguyễn Quốc Th trị giá 1.260.000 đồng. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 08/9/2020, bị cáo Bảo trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn C trị giá 680.000 đồng. Vào khoảng 05 giờ 00 phút bị cáo trộm cắp tài sản của Nguyễn Thị Kim Q trị giá 686.164 đồng.

Tuy cả 3 lần, bị cáo trộm cắp tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo đã có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản trước đó. Vì vậy, hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Bị cáo Bảo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết hành vi trộm cắp tài sản là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp người khác nhưng do nghiện hút, không có nghề nghiệp, lười biếng, muốn có tiền để tiêu xài cho cá nhân mà không phải lao động nên đã thực hiện tội phạm. Bị cáo thực hiện hành vi trái pháp luật của mình với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho cộng đồng. Mặc dù, bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, làm ăn lương thiện mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải xử lý bị cáo một mức án nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản trộm cắp có giá trị không lớn và đã được thu hồi giao trả cho người bị hại, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn C và Nguyễn Thị Kim Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác nên HĐXX không xem xét.

Anh Nguyễn Th yêu cầu bị cáo Trần Thái B bồi thường số tiền 2.000.000 đồng theo giá chiếc bình ắc quy mà Thuận đã mua để bồi thường cho Thiện và bị cáo cùng đồng ý bồi thường, xét việc thỏa thuận này là tự nguyện nên HĐXX công nhận.

Anh Trần Hữu Th và Nguyễn Đức H không yêu cầu bị cáo Bảo hoàn trả số tiền mà Thành và Hậu đã mua nhầm tài sản trộm cắp nên không xem xét giải quyết.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển số 49V3-7107, số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237 mà bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước;

Riêng giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ biển số 49V3-7107 và giấy đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 49V3-7107 chờ xác minh, xử lý nên HĐXX không xem xét.

Đối với 01 (một) Bình ắc quy màu trắng, hiệu GS N100, mã số 0604099320171, loại 100 ampe bị cáo khai bán cho Nguyễn Đức H nhưng Hậu không thừa nhận mua chiếc bình ắc quy này của bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác xác định Hậu đã mua chiếc bình ắc quy trên, cho nên Cơ quan điều tra không thu hồi được nên HĐXX không xem xét.

Đối 01 (một) bóng đèn điện và 01 (một) cuộn dây điện dài 10 mét, hiệu Cadivi 2,5mmm bị cáo Bảo khai đã ném bỏ và để quên tại vựa thu mua phế liệu của Nguyễn Đức H, hiện không biết số tài sản này ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu hồi được nên HĐXX không xem xét.

[7] Đối với Trần Hữu Th mua 01 (một) thùng thuốc bị cáo Bảo vệ thực vật hiệu TOXBAIT và Nguyễn Đức H mua 04 (bốn) bó sắt hiệu Vina kyoei, loại sắt phi 8 với giá 320.000 đồng nhưng không biết là tài sản trộm cắp nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý là phù hợp.

[8] Bị cáo Trần Thái B phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 584, Điều 585, Điều 589, Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 246 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thái B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Trần Thái B 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển số 49V3-7107, số khung RLCS5C640AY218237, số máy 5C64-218237 (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Bình với Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình).

4. Về dân sự: Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại, bị cáo Trần Thái B đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Th số tiền 2.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Về án phí: Bị cáo Trần Thái B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/8/2021); bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2021/HS-ST

Số hiệu:72/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về