Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 80/2021/HSST, ngày 29 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Xuân C, sinh năm 1987 HKTT và Nơi ở hiện nay: Thôn 7, xã Q, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân V (đã chết) và bà Bùi Thị B, sinh năm 1952; Chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 29/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 06/01/2018, chưa chấp hành phần bồi thường dân sự; Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 14/6/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 27 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Gây rối trật tự công cộng”; Ngày 14/02/2014 bị Công an phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt tạm giữ ngày 21/10/2021 đến ngày 24/10/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Đình L, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1958 Cùng HKTT: Xã Q, huyện X, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 30/6/2020, Lê Văn Ngh điều khiển xe máy Wave anpha BKS 36H3-2094 chở Lê Xuân C lên thành phố Thanh Hóa để mua ma túy sử dụng. Khi cả hai đi đến khu vực đường Đại lộ V thì phát hiện có một nhà bỏ trống, không khóa cửa. Quan sát thấy không có người trông coi nên Ngh dừng xe trước cửa rồi đi bộ vòng ra phía sau nhà. C đi vào trong nhà, phát hiện thấy 01 ti vi màu đen LG21 in màn hình lồi đang để trên bàn sát giường ngủ nên C bê ra ngoài. Khi ra đến cửa thì bị anh L là bảo vệ hồ cá phát hiện nên C đã bỏ ti vi xuống và bỏ chạy thì bị bắt giữ. Cơ quan điều tra đã thu giữ tang vật, ngoài ra còn thu giữ của Lê Xuân C 330.000đ và thu giữ 01 xe máy Wave anpha màu xanh BKS 36H3-2094.

Theo báo cáo của bị hại là anh Nguyễn Đình L, chiếc ti vi trên là của anh, có giá trị 1.500.000đ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 172/KL-HĐĐGTS ngày 17/7/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thanh Hóa đã kết luận: Ti vi LG21 inch màn hình lồi đã qua sử dụng có giá trị 350.000đ.

Quá trình điều tra, Lê Xuân C đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 16/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định truy nã số 33/CSĐT đối với Lê Xuân C. Ngày 21/10/2021, Lê Xuân C bị bắt tại Công an phường 13, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đối với Lê Văn Ngh là người mà C khai cùng C đi trộm cắp tài sản. Qua xác minh Ngh không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được với Ngh, đồng thời xác minh nhân thân Ngh chưa có tiền án, tiền sự, tài sản trộm cắp trị giá dưới 2.000.000đ. Do đó, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau đối với Lê Văn Ngh.

Đối với 01 ti vi màu đen LG21 in màn hình phẳng là tài sản trộm cắp, Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho anh L, anh L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave anpha màu xanh BKS 36H3-2094, quá trình điều tra xác minh chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Lê Văn Đ, là bố đẻ của Lê Văn Ngh. Ông Đ cho Ngh mượn xe để đi nhưng không biết Ngh sử dụng xe vào việc trộm cắp, ông Đ không liên quan nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Lê Văn Đ.

Đối với số tiền 330.000đ thu giữ của Lê Xuân C khi bị bắt, qua xác minh số tiền này không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại cho C.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Xuân C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại cáo trạng số 37/CT-VKS, ngày 28/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa truy tố Lê Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Lê Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về phần dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Xuân C khai nhận: Khoảng 8 giờ ngày 30/6/2020, Lê Xuân C đã lợi dụng sơ hở, lén lút trộm cắp 01 ti vi màu đen LG21 in màn hình lồi có giá trị 350.000đ của anh Nguyễn Đình L thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Lê Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp tài sản. Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000đ nhưng do bị cáo đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo cũng như giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm. Bị cáo có nhân thân xấu nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, xem thường pháp luật.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về phần dân sự: Tài sản bị cáo trộm cắp đã được trả lại cho chủ sở hữu, bị hại đã nhận lại tài sản và không có thắc mắc, yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với Lê Văn Ngh là người mà C khai cùng C đi trộm cắp tài sản. Qua xác minh Ngh không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được với Ngh, đồng thời xác minh nhân thân Ngh chưa có tiền án, tiền sự, tài sản trộm cắp trị giá dưới 2.000.000đ. Do đó, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau đối với Lê Văn Ngh.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave anpha BKS 36H3-2094 là vật chứng trong vụ án, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã xác minh chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Lê Văn Đ. Ông Đ cho Ngh mượn xe để đi nhưng không biết Ngh sử dụng xe vào việc trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Lê Văn Đ là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân C 07 (Bảy) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 21/10/2021.

Về phần bồi thường dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14.

Bị cáo Lê Xuân Cương phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về