TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH HOÀ BÌNH
BẢN ÁN 69/2021/HS-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31/12/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Bùi Văn Nh, sinh ngày 20/4/1991 tại xã Yên Phú, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nơi ĐKHKTT: xóm Trắng Đồi, xã Yên Phú, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Bố đẻ: Bùi Văn Q, sinh năm 1963 (Đã chết). Mẹ đẻ: Bùi Thị N, sinh năm 1961 (Đã chết). Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 03 anh, chị, em. Vợ, con: Chưa có.
Tiền án: Không;
Tiền sự: 02 - Ngày 14/06/2018, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 20/QĐ-TA.
- Ngày 29/03/2021, UBND xã Yên Phú, huyện L, tỉnh Hòa Bình, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quyết định số 39/QĐ-UBND.
Về nhân thân: Ngày 07/12/2021 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 68/2021/HS- ST.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2021 được trích xuất và hiện có mặt tại phiên tòa.
2. Bùi Văn H, sinh ngày 30/10/1986 tại xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nơi ĐKHKTT: xóm Cỏ Giữa, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; Bố đẻ: Bùi Văn Ch, sinh năm 1965; Mẹ đẻ: Bùi Thị Nh, sinh năm 1967. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 anh em. Vợ, con: Chưa có.
Tiền án: Không;
Tiền sự: 01 - Ngày 08/11/2017, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 18/QĐ-TA.
Nhân thân: Năm 2011 bị UBND huyện L quyết định cưỡng chế đưa vào trung tâm cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 4137/QĐ-UBND ngày 27/12/2011.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: chị Quách Thị G, sinh năm 1997. Nơi cư trú: xóm Thượng Bầu, xã X, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Bùi Văn Ch, sinh năm 1965; Nơi cư trú: xóm Cỏ Giữa, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.
+Anh Bùi Văn T, sinh năm 1981; Nơi cư trú: xóm Chiềng Vang, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 16/11/2021, Bùi Văn H, sinh năm 1986, trú tại xóm Cỏ Giữa, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình, gọi điện thoại cho Bùi Văn Nh, sinh năm 1991, trú tại xóm Trắng Đồi, xã Yên Phú, huyện L, tỉnh Hòa Bình, thì Bùi Văn Nh nói là đang ở khu vực ngã ba Xưa thuộc xã địa phận xóm Ngã Ba, xã X, huyện L và bảo Bùi Văn H đến đón. Trong lúc đợi Bùi Văn H đến đón, Bùi Văn Nh quan sát thấy chị Quách Thị Giang, sinh năm 1997, trú tại xóm Thượng Bầu, xã X, huyện L, tỉnh Hòa Bình, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu: HONDA, số loại: VISION, màu sơn: Đỏ, biển kiểm soát 28G1 - X, dừng trước cửa hàng tạp hóa Hoa Bân, địa chỉ xóm Ngã Ba, xã X, huyện L, tỉnh Hòa Bình để vào mua đồ và có để chiếc điện thoại ở hốc chứa đồ trên cánh yếm của xe mô tô, Nh nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại nói trên. Khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, màu sơn: Đỏ - Đen, biển kiểm soát 28N1 – X của thuộc sở hữu của ông Bùi Văn Chon, sinh năm 1965, trú tại xóm Cỏ Giữa, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (ông Bùi Văn Chon là bố đẻ của H) đến khu vực ngã ba Xưa gặp Nh đang đứng ở gần xe mô tô mang biển kiểm soát: 28G1 - X của chị Giang. Lúc này, Nh có nói với H là: “Con kia để quên điện thoại ở xe mày lấy đi”. H đồng ý cùng Nh thực hiện hành vi trộm cắp nhưng H không dám trực tiếp trộm cắp chiếc điện thoại nên hỗ trợ Nh bằng cách H ngồi trên xe mô tô ở vị trí lái, dùng hai chân đẩy xe, còn Bùi Văn Nh đứng phía sau dùng tay đẩy xe mô tô của H tiến đến sát xe mô tô của chị Giang nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Nh thực hiện hành vi trộm cắp. Nh ngồi lên phía sau xe dùng tay trộm cắp chiếc điện thoại của chị Giang đang để ở hốc chứa đồ trên cánh yếm của xe mô tô. Sau đó H điều khiển xe mô tô chở Nh tẩu thoát. Ngay sau khi lấy được chiếc điện thoại H chở Nh đi theo Quốc lộ 12B (hướng X đi thị trấn Vụ Bản) để tìm nơi bán chiếc điện thoại. Nh và H đến hai cửa hàng điện thoại nhưng không bán được. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Nh đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết đến khu vực chợ Chiềng thuộc xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình và bán chiếc điện thoại nói trên cho Bùi Văn Tịnh, sinh năm 1981, trú tại xóm Chiềng Vang 1, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình với giá 1.500.000 đồng. Số tiền có được từ việc bán tài sản trộm cắp được Bùi Văn Nh mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tài sản đã được thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu.
Tại Kết luận định giá tài sản số 34/KL-HĐĐGTS ngày 19/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: “Điện thoại nhãn hiệu VIVO, số loại: Y20, màu Đen - Trắng (Phần màn hình màu đen, phần mặt lưng màu trắng), đã qua sử dụng, giá trị tại thời điểm bị xâm hại ngày 16/11/2021 là 2.100.000 đồng.
Việc thu giữ vật chứng, đồ vật, tài liệu và xử lý:
- Đối với 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu: VIVO, loại: Y20, màu Đen - Trắng (Phần màn hình màu đen, phần mặt lưng màu trắng), số IMEL 1: 862310059260356; số IMEL 2: 862310059260349. Điện thoại cũ, đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình, ra Quyết định xử lý vật chứng và trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Quách Thị Giang.
- Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, màu sơn: Đỏ - Đen, mang biển số: 28N1 – X, kèm theo chìa khóa điện và giấy chứng nhận đăng ký xe. Xác định thuộc sở hữu hợp pháp của ông Bùi Văn Chon, ông Chon không biết việc Bùi Văn H sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình, ra Quyết định xử lý vật chứng và trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp.
- Đối với chiếc sim điện thoại, quá trình điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng chưa thu giữ được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L ra thông báo truy tìm vật chứng, khi nào thu giữ được sẽ xử lý theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Quách Thị Giang, đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì thêm về trách nhiệm dân sự trong vụ án.
Đối với Bùi Văn Tịnh, là người đã mua chiếc điện thoại do Nh và H trộm cắp với giá 1.500.000 đồng, nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không đề cập xử lý. Anh Tịnh đề nghị Bùi Văn Nh có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền 1.500.000 đồng.
Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, Bùi Văn Nh và Bùi Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập được.
Tại bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 01/CT-VKS ngày 15/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã quyết định truy tố các bị cáo về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và khẳng định Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn Nh từ 09 đến 12 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn H từ 06 đến 09 tháng tù..
Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 173 BLHS đối với các bị cáo do không có tính khả thi.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Quách Thị Giang không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết; đề nghị áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo Bùi Văn Nh bồi hoàn số tiền 1.500.000 đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) cho anh Bùi Văn Tịnh.
Đối anh Bùi Văn Tịnh, là người đã mua chiếc điện thoại do Nh và H trộm cắp với giá 1.500.000 đồng, nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên đề nghị HĐXX không đề cập xử lý trong vụ án.
Các bị cáo thừa nhận Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 16/11/2021 tại khu vực xóm Ngã Ba, xã X, huyện L, Bùi Văn Nh và Bùi Văn H đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, số loại Y20, mầu đen – trắng trị giá 2.100.000 đồng, là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Quách Thị Giang. Bùi Văn Nh và Bùi Văn H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn Nh và Bùi Văn H phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy các bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.
[4]. Về nhân thân:
Bị cáo Bùi Văn Nh có 02 tiền sự; Nhân thân: Ngày 07/12/2021 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 68/2021/HS-ST.
Bị cáo Bùi Văn H có 01 tiền sự; Nhân thân: Năm 2011 bị UBND huyện L quyết định cưỡng chế đưa vào trung tâm cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 4137/QĐ-UBND ngày 27/12/2011.
[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự hối hận về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặt biệt khó khăn, các bị cáo ra tự thú. Riêng bị cáo Bùi Văn H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo H thuộc diện hộ cận nghèo nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Bùi Văn Nh được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Bùi Văn H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
[6]. Hành vi của các bị cáo là đồng phạm mang tính chất giản đơn, giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, thống nhất, phân công vai trò cụ thể, trong đó bị cáo Nh giữ vai trò là người khởi xướng, người thực hành, cũng là người trực tiếp mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ, bị cáo H giữ vai trò là người giúp sức.
[7]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy bị cáo Bùi Văn Nh có nhân thân xấu (nghiện ma túy) nên cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo. Bị cáo Bùi Văn H phạm tội ít nghiêm trọng, chỉ giữ vai trò là người giúp sức.Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[8]. Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[9]. Trong vụ án này, anh Bùi Văn Tịnh là người đã mua chiếc điện thoại do Nh và H trộm cắp, nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa cũng cần nhắc nhở rút kinh nghiệm chung trong công tác phòng chống tội phạm.
[10]. Về trách nhiệm dân sự: Cần áp dụng điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo bồi hoàn số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cho anh Bùi Văn Tịnh. Bị hại Quách Thị Giang không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.
[11]. Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu: VIVO, loại: Y20, màu Đen - Trắng (Phần màn hình màu đen, phần mặt lưng màu trắng), số IMEL 1: 862310059260356; số IMEL 2: 862310059260349. Điện thoại cũ, đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình, ra Quyết định xử lý vật chứng và trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Quách Thị Giang. Sau khi nhận lại tài sản, chị Giang không có ý kiến gì và việc xử lý vật chứng nêu trên của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, nên không xem xét.
Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, màu sơn: Đỏ - Đen, mang biển số: 28N1 – X, kèm theo chìa khóa điện và giấy chứng nhận đăng ký xe. Xác định thuộc sở hữu hợp pháp của ông Bùi Văn Chon, ông Chon không biết việc Bùi Văn H sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định xử lý vật chứng và trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp. Sau khi nhận lại tài sản, ông Chon không có ý kiến gì và việc xử lý vật chứng nêu trên của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, nên không xem xét Đối với chiếc sim điện thoại, quá trình điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng chưa thu giữ được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L ra thông báo truy tìm vật chứng, khi nào thu giữ được sẽ xử lý theo quy định nên chưa có căn cứ giải quyết, do đó cần tiếp tục giao Cơ quan Công an huyện L xử lý theo quy định.
[12]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Bùi Văn H cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo Bùi Văn Nh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
[13]. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Nh và bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn Nh 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/11/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt để thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo Bùi Văn Nh bồi hoàn số tiền 1.500.000 đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cho anh Bùi Văn Tịnh.
4. Án phí hình sự sơ thẩm:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/NQ-QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Văn Nh phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự. Tổng cộng bị cáo phải chịu 500.000đ án phí.
5. Quyền kháng cáo:
Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 69/2021/HS-ST
Số hiệu: | 69/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về