Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 68/2022/HS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Văn L, sinh năm 1971 tại Thanh Hóa; nơi đăng kí thường trú:

không nơi đăng kí hộ khẩu thường trú; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn P và bà Nguyễn Thị K; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: tại Bản án số 06/1998/HS-ST ngày 22 tháng 6 năm 1998, Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên), tỉnh Bình Dương xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” theo khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Hình sự; ngày bị tạm giữ 15 tháng 4 năm 2022 đến 20 tháng 04 năm 2022, sau tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trương Văn V, sinh năm 1982; nơi cư trú: Ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 10 tháng 4 năm 2022, Phạm Văn đi xe khách từ tỉnh Đồng Nai lên tỉnh Bình Dươngđể thăm người nhà nhưng không nhớ đường nên đã đi lạc lên địa phận huyện B, tỉnh Bình Dương.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, L ghé vào quán cà phê tên “T” trên đường M thuộc khu phố Đ, thị trấn L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nằm nghỉ ngơi. Trong thời gian này, L thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Y màu đen đỏ, biển số 61K1 của bà Hoàng Thị H có cắm chìa khoá trên xe nên đã lấy chìa khoá đem đi cất giấu. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 11 tháng 4 năm 2022, khi thấy quán cà phê đã đóng cửa và xe mô tô trên vẫn để gần chòi võng của L quan sát không có người trông coi nên L đã sử dụng chìa khóa cất giấu trước đó, lấy xe điều khiển về đường M hướng về tỉnh Đồng Nai. Do không quen đường, trời khuya nên Lương đi lạc về Thành phố Hồ Chí Minh và ở lại 03 ngày. Đến khoảng 22 giờ ngày 14 tháng 4 năm 2022, L điều khiển xe mô tô trên di chuyển qua địa bàn xã T, huyện B1, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công xã T kiểm tra và mời về cơ quan làm việc. Tại đây, L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Y màu đen đỏ, biển số: 61K1, số khung C6H0EY065482, số máy 5C6H-065497.

Tại Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HDĐG ngày 20 tháng 4 năm 2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bàu Bàng kết luận: 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, biển số 61K1-010.85, màu đen đỏ, số khung 5C6H065497, số máy C6HEY065482, xe đăng kí lần đầu 03 tháng 10 năm 2014 trị giá 13.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản.

Về xử lý vật chứng: xe mô tô nhãn hiệu Y màu đen đỏ, biển số: 61K1 do ông Trương Văn V (chồng của bà Hoàng Thị H) là người đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe. Ông V ủy quyền cho bà H toàn quyền quyết định. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng đã tiến hành trả lại xe mô tô nói trên cho bà H, bà H nhận lại xe, không có yêu cầu gì khác.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về việc xử lý vật chứng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Phạm Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản Cáo trạng số 57/CT–VKSBB ngày 30 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo L mức án từ 22 (hai mươi hai) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Bị cáo Phạm Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận.

Bị hại bà Hoàng Thị H vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra, truy tố đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trương Văn V vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra, truy tố không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Bị cáo Phạm Văn L nói lời sau cùng: bị cáo biết trộm cắp tài sản là sai trái, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào lúc 01 giờ 00 phút ngày 11 tháng 4 năm 2022, tại quán cà phê “T” thuộc khu phố Đ, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phạm Văn L có hành vi lén lút lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu Y màu đen đỏ, biển số: 61K1 của bà Hoàng Thị H trị giá 13.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định: hành vi của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tại phiên tòa: bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản.

5 hi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

[5.1] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[5.2] Về nhân thân: tại thời điểm phạm tội, bị cáo không bị kết án, không bị xử lý hành chính, tuy nhiên, bị cáo từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản công dân, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, xét về nhân thân của bị cáo là không tốt.

[5.3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Phạm Văn L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5.4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Xét, tình hình xâm phạm sở hữu ngày càng diễn biến phức tạp, hành vi trộm cắp tài sản liên tục xảy ra trên địa bàn huyện B, hành vi ngày càng liều lĩnh, phức tạp. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[7] Đề nghị của iểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về các vấn đề khác: Bị hại bà Hoàng Thị H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9 Về án phí: bị cáo Phạm Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 6, 23 Mục 1 Phần I Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo) của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 4 năm 2022.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2022/HS-ST

Số hiệu:68/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về