Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 H 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện H, tỉnh Bình H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 131/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 12 H 2020; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST-HS ngày 13/01/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/HSST-QĐ ngày 27/01/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 06A/2021/HSST-QĐ ngày 26/02/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2021/HSST-QĐ ngày 26/3/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 17A/2021/HSST- QĐ ngày 26/4/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 20A/2021/HSST-QĐ ngày 26/5/2021, đối với các bị cáo:

1. VÕ HUỲNH NGỌC H (Tên gọi khác: Bí) - sinh H 1997 tại Bình H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Huyện H, tỉnh Bình H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Minh Tuấn và bà Huỳnh Thị Ngọc H; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 16/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Huyện H, tỉnh Bình H. Bị cáo có mặt.

2. VÕ NHỰT T (Tên gọi khác: Heo, Thanh) - sinh ngày 20/8/2000 (theo giấy khai sinh); theo Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi thì ngày phạm tội T ở độ tuổi từ 17 H 03 tháng; Nơi sinh tại Bình H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo:

kng; Quốc tịch: Việt Nam; Con bà Võ Thị H và cha: không rõ họ tên; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Bị cáo có mặt.

Người đại diện theo pháp luật và người bào chữa của bị cáo Võ Nhựt T: Bà Võ Thị H, sinh H 1976 (có mặt).

Đa chỉ:  thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình H.

Bị hại:

- Ông Trịnh Công H, sinh H 1964 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

- Ông Nguyễn Đình H, sinh H 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện H, tỉnh Bình H.

- Ông Đặng Văn Hòa, sinh H 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện H, tỉnh Bình H.

- Ông Nguyễn Văn Hiếu, sinh H 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện H, tỉnh Bình H.

- Ông Đặng Thế H, sinh H 1978 (vắng mặt) Địa chỉ:Huyện H, tỉnh Bình H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Võ Thị H, sinh H 1976 (có mặt).

Đa chỉ: thôn Thiện Trung, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình H.

Người làm chứng:

- Bà Phạm Hồng H, sinh H 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện H, tỉnh Bình H.

- Bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh H 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Huyện H, tỉnh Bình H.

- Bà Trần Thị Thanh H, sinh H 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình H.

- Ông Võ Văn H, sinh H 1946 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các H liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Huỳnh Ngọc H (Bí), sinh H 1997, ở thôn Phú Hòa, xã Hàm Trí, Huyện H và Võ Nhựt T (Heo, Thanh), sinh H 2000 (theo giấy khai sinh), ở thôn Thiện Trung, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết là các đối tượng nghiện ma túy đá, không có nghề nghiệp, lấy việc chiếm đoạt H sản của người khác làm nguồn sống chính. Từ ngày 26/7/2020 đến ngày 12/9/2020, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T đã cùng nhau nhiều lần lén lút chiếm đoạt H sản của người khác ở các xã trên địa bàn Huyện H, cụ thể như sau:

Lần T nhất: khong 01 giờ ngày 26/7/2020, Võ Huỳnh Ngọc H đến phòng trọ của mẹ ruột là bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh H 1979, ở xã Hàm Thắng chơi. Tại đây, Võ Huỳnh Ngọc H gặp Võ Nhựt T, H rủ T đi tìm nhà người dân có sơ hở để lấy trộm H sản thì T đồng ý. H điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Mio (xe không rõ biển số do bà Huỳnh Thị Ngọc H làm chủ sở hữu) chở T đi tìm nhà người dân có sơ hở để lấy trộm H sản (bà Huỳnh Thị Ngọc H không biết H và T sử dụng xe mình đi trộm cắp). Khi đến đến thôn 4, xã Hồng Sơn nhìn thấy nhà của ông Nguyễn Ngọc Trinh, sinh H 1980 đang xây dựng, H đứng ngoài giữ xe mô tô và cảnh giới, T đi bộ vào bên hông nhà, nhìn thấy ông Trịnh Công H, sinh H 1964, ở xã Gio Sơn, Huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị đang nằm ngủ trên nhà tạm, bên cạnh có để điện thoại di động nhãn hiệu SamSung A21S, T lén lút lấy điện thoại bỏ vào túi quần. Sau đó, H chở T về nhà, đến sáng ngày hôm sau, H và T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H, ở số 27, đường Phạm Ngọc Thạch, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết do Trương Minh H, sinh H 1986, ở thôn Đại Thiện 2, xã Hàm Hiệp, Huyện H làm chủ, bán được số tiền 1.200.000đ (H không biết đây là điện thoại do H và T phạm tội mà có), số tiền trên H và T sử dụng chung tiêu xài cá nhân hết.

Lần T hai: khong 01 giờ ngày 31/7/2020, H điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Mio của bà H chở T đi đến thôn Liêm Thái, xã Hồng Liêm, nhìn thấy nhà của ông Nguyễn Đình H, sinh H 1985 cửa sổ mở, H đứng ngoài giữ xe mô tô và cảnh giới, T đi bộ vào bên hông nhà, lén lút dùng cây gỗ kéo một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A39 của ông H để trên giường ra gần cửa sổ rồi dùng tay lấy điện thoại bỏ vào túi quần. Sau đó, H chở T về nhà, đến sáng ngày hôm sau, H và T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H bán cho H được số tiền 500.000đ (H không biết đây là điện thoại do H và T phạm tội mà có), số tiền trên H và T sử dụng chung tiêu xài cá nhân hết.

Lần T ba: khong 01 giờ ngày 10/8/2020, H điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Mio của bà H chở T đi đến nhà đang xây dựng của ông Trinh, nơi H và T thực hiện vụ trộm T nhất. H đứng ngoài giữ xe mô tô và cảnh giới, còn T đi bộ vào nhà, nhìn thấy ông H (bị hại trong vụ T nhất) đang nằm ngủ trên võng, trên nền đất có để một điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung A21S, T lén lút lấy điện thoại bỏ vào túi quần. Sau đó, H chở T về nhà, đến sáng ngày hôm sau, H và T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H bán cho H được số tiền 1.200.000đ (H không biết đây là điện thoại do H và T phạm tội mà có), số tiền trên H và T sử dụng chung tiêu xài cá nhân hết.

Lần T tư: khong 01 giờ một ngày tháng 8/2020 (sau vụ T ba khoảng 03 đến 04 ngày), H điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Mio của bà H chở T đi đến thôn Kim Ngọc, xã Hàm Thắng, nhìn thấy nhà của ông Đặng Văn Hòa, sinh H 1965 cửa nhà mở, H đứng ngoài giữ xe mô tô và cảnh giới, T đi bộ vào bên trong nhà, lén lút lấy một điện thoại di động, nhãn hiệu Sonny C3 của ông Hòa để trên giường ngủ. Sau đó, H chở T về nhà, đến sáng ngày hôm sau, H và T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H bán cho H được số tiền 300.000đ (H không biết đây là điện thoại do H và T phạm tội mà có), số tiền trên H và T sử dụng chung tiêu xài cá nhân hết.

Lần T H: khoảng 01 giờ một ngày tháng 8/2020 (sau vụ T tư khoảng 03 đến 04 ngày), T đi bộ đến khu vực thôn Kim Ngọc, xã Hàm Thắng, nhìn thấy tại bãi sửa xe của ông Võ Đức Thành, sinh H 1977 có người nằm ngủ trên gác, T leo lên gác, lén lút lấy một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F9 và một điện thoại Nokia 106 của ông Nguyễn Văn Hiếu, sinh H 1980, ở thôn Dốc Lăng, xã H Minh để trên gác. Ngày hôm sau, T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H bán (không nhớ rõ số tiền bán được, H không biết đây là điện thoại do T phạm tội mà có), số tiền trên, T sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Lần T sáu: khong 01 giờ, một ngày tháng 8/2020 (sau vụ T H khoảng 07 ngày), T điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Mio của bà H chở Lê Thị Thanh Thy, sinh H 2002, ở khu phố Phú Thịnh, thị trấn Phú Long (theo lời khai của T, còn Thy thì không thừa nhận việc này) đến thôn 3, xã Hồng Sơn, nhìn thấy có Trường mẫu giáo đang xây dựng. Thy đứng ở ngoài giữ xe mô tô, còn T đi bộ vào chòi tạm của công nhân ngủ, nhìn thấy một điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung A9S (chưa xác định được bị hại) để trên bàn, T lén lút lấy điện thoại cầm ra đưa cho Thy. Ngày hôm sau, T mang điện thoại đến cửa hàng điện thoại di động Minh H bán nhưng không được nên đem điện thoại cho Thy sử dụng (theo lời khai của T).

Lần T bảy: khong 13 giờ 30 phút ngày 12/9/2020, H và T rủ nhau đi tìm nhà người dân có sơ hở để lấy trộm H sản. H điều khiển xe mô tô, biển số 86AD-004.69 (mượn của một người không rõ lai lịch tên Trường) chở T đi trên đường nhựa liên thôn Thắng H, xã Hàm Thắng, nhìn thấy nhà của ông Đặng Thế H, sinh H 1978 mở cửa, không có người trong coi. T ngồi bên ngoài cảnh giới, giữ xe mô tô, còn H đi bộ vào nhà lén lút chiếm đoạt 03 đồng hồ (nhãn hiệu Citizen, Fossil, Winger), 01 cái ví da phụ nữ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 để trên bàn trong nhà. Sau đó, H chở T mang đồng hồ đến thành phố Phan Thiết nhưng không bán được nên quay về xã Hàm Liêm. H sử dụng điện thoại Nokia 105 chiếm đoạt của ông H nhắn tin cho bà Trần Thị Thanh H, sinh H 1977, ở đường Võ Hữu, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết là bạn của vợ ông H với nội dung: “Tôi có nhặt cái ví bao gồm bằng lái xe hai loại và CMND với thẻ ngân hàng của chị Phạm Hồng H”. Bà H báo tin cho bà Phạm Hồng H, sinh H 1981, ở thôn Thắng H, xã Hàm Thắng là vợ anh ông H. Sau đó, bà H tiếp tục nhắn tin, điện thoại với H để hẹn xin chuộc giấy tờ, đồng thời trình báo sự việc cho Công an xã Hàm Thắng. Công an xã Hàm Thắng đã đến xã Hàm Liêm, nơi H hẹn bà H mời H và T về làm việc. Quá trình làm việc, H và T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá H sản số 75 – 76/2020/HĐĐGTT cùng ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá H sản trong tố tụng hình sự Huyện H:

01 đồng hồ, loại đeo tay, mặt hình tròn màu đen. Nhãn hiệu Citizen, dây kim loại màu trắng, máy pin. Eco – Driver 6 kim. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 12.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 70%. Thành tiền: 12.000.000đ x 70% = 8.400.000đ.

01 đồng hồ, loại đeo tay, mặt hình tròn màu đen. Nhãn hiệu Fossil, dây kim loại màu trắng, máy automatic. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 7.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 60%. Thành tiền: 7.000.000đ x 60% = 4.200.000đ.

01 đồng hồ, loại đeo tay, mặt hình tròn màu trắng. Nhãn hiệu Winger, dây bằng da, màu đen, máy pin. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 5.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 35%. Thành tiền: 5.000.000đ x 35% = 1.750.000đ.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 105. Mua vào H 2015. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 350.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 30%. Thành tiền:

350.000đ/cái x 30% = 105.000đ.

Tng giá trị H sản định giá là 14.455.000đ.

02 điện thoại di động. Nhãn hiệu SamSung A21S. Mua vào tháng 07, tháng 08/2020. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 3.990.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 75%. Thành tiền: 02 điện thoại x 3.990.000đ/cái x 75% = 5.985.000đ.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo A39. Mua vào tháng 02/2020. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 3.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 75%. Thành tiền: 3.000.000đ/cái x 75% = 2.250.000đ.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo F9. Mua vào tháng 7/2020. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 6.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 75%. Thành tiền: 6.000.000đ/cái x 75% = 4.500.000đ.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Sonny C3. Mua vào H 2015. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 4.000.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 30%. Thành tiền:

4.000.000đ/cái x 30% = 1.200.000đ.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 106. Mua vào tháng 6/2019. Giá trị mới tại thời điểm xảy ra vụ án là 350.000đ/cái. Giá trị sử dụng còn lại là 60%. Thành tiền:

350.000đ/cái x 60% = 210.000đ.

Tng giá trị H sản định giá là 14.145.000đ.

Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 5253/C09B của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh:

Qua quá trình khám lâm sàng và kết quả cận lâm sàng. Xác định tại thời điểm giám định (tháng 10/2020) Võ Nhựt T có độ tuổi từ 17 H 06 tháng đến 18 H.

Vt chứng vụ án thu giữ và l :

- 02 đồng hồ, nhãn hiệu Citizen, Fossil và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho Đặng Thế H là chủ sở hữu.

- 01 đồng hồ hiệu Winger, sau khi không bán được đồng hồ, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T về lại xã Hàm Liêm, thấy đồng hồ không chạy, H ném đồng hồ xuống sông nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H không thu giữ được.

- Đối với 07 điện thoại di động các loại gồm: 02 điện thoại SamSung A21S, 01 điện thoại Oppo A39, 01 điện thoại Oppo F9, 01 điện thoại Sonny C3, 01 điện thoại Nokia 106 và 01 điện thoại SamSung A9S, Trương Minh H không thừa nhận có mua hết số điện thoại trên và chỉ thừa nhận có mua một số điện thoại loại rẻ tiền và khi mua nghĩ là điện thoại của các đối tượng trên, không biết đó là H sản do phạm tội mà có và số điện thoại đã mua H đã bán lại cho khách hàng không biết rõ họ tên địa chỉ cụ thể của những khách hàng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H không thu giữ được.

- Đối với xe mô tô, nhãn hiệu Mio (không rõ biển số) của Huỳnh Thị Ngọc H, H không biết Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp H sản, hiện nay đã bán cho một người không rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H không thu giữ.

- Đối với xe mô tô, biển số 86AD-004.69, Võ Huỳnh Ngọc H mượn của một người tên Trường (không xác định được lại lịch) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H không thu giữ được.

Về dân sự:

Võ Nhựt T đã bồi thường cho Trịnh Công H 5.985.000đ, Nguyễn Đình H 2.250.000đ, cho Đặng Văn Hòa 1.200.000đ, cho Nguyễn Văn Hiếu 4.710.000đ. Đặng Thế H đã nhận lại H sản, không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Đi với 01 cái ví da phụ nữ Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T chiếm đoạt của Đặng Thế H, vì ví da đã cũ, không còn giá trị sử dụng nên Đặng Thế H không có yêu cầu bồi thường gì và không nhận lại H sản là cái ví da phụ nữ bị chiếm đoạt trên.

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSHTB ngày 29/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện H truy tố: Các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T về tội “Trộm cắp H sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Huyện H: Giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Võ Huỳnh Ngọc H từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt: Võ Nhựt T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đã xử lý xong theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Trịnh Công H, Nguyễn Đình H, Đặng Văn Hòa, Nguyễn Văn Hiếu đã nhận tiền bồi thường, còn Đặng Thế H đã nhận lại H sản. Các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì không xem xét.

- Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Võ Nhựt T là bà Võ Thị H (mẹ ruột bị cáo T) đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Võ Nhựt T.

- Ý kiến của các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H, Võ Nhựt T: Các bị cáo bị xét xử về tội “Trộm cắp H sản” là đúng, không oan. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các H liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án bị hại và người làm chứng vắng mặt đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra lấy lời khai theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, sự vắng mặt của những người trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Căn cứ buộc tội: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Huyện H đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an Huyện H, các H liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Từ ngày 26/7/2020 đến ngày 12/9/2020, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T đã cùng nhau nhiều lần lén lút trộm cắp H sản của nhiều người khác nhau ở các xã trên địa bàn Huyện H, cụ thể như sau:

Lần T nhất: khoảng 01 giờ ngày 26/7/2020, tại thôn 4, xã Hồng Sơn, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung A21S, trị giá 2.992.500đồng của Trịnh Công H.

Lần T hai: khoảng 01 giờ ngày 31/7/2020, tại thôn Liêm Thái, xã Hồng Liêm, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo A39, trị giá 2.250.000đồng của Nguyễn Đình H.

Lần T ba: khoảng 01 giờ ngày 10/8/2020, tại thôn 4, xã Hồng Sơn, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung A21S, trị giá 2.992.500đồng của Trịnh Công H.

Lần T tư: cách lần T ba khoảng 3 đến 4 ngày (giữa tháng 8/2020), tại thôn Kim Ngọc, xã Hàm Thắng, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Sonny C3, trị giá 1.200.000đồng của Đặng Văn Hòa.

Lần T H: khoảng 14 giờ 00 phút ngày 12/9/2020, tại thôn Thắng H, xã Hàm Thắng, Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T đã cùng nhau lén lút chiếm đoạt 03 đồng hồ (nhãn hiệu Citizen, Fossil, Winger), 01 cái ví da phụ nữ, 01 điện thoại di động Nokia 105, tổng trị giá 14.455.000đồng của Đặng Thế H.

Ngoài ra, cách lần T tư khoảng 3 đến 4 ngày (giữa tháng 8/2020), tại thôn Kim Ngọc, xã Hàm Thắng, Võ Nhựt T một mình lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo F9 và 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 106, tổng trị giá 4.710.000đồng của Nguyễn Văn Hiếu.

Tng trị giá H sản mà Võ Huỳnh Ngọc H chiếm đoạt là: 23.890.000đồng. Tổng trị giá H sản mà Võ Nhựt T chiếm đoạt là: 28.600.000đồng.

Hành vi trên của các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp H sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện H truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong vụ án này, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ nên giữa các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn. Bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H là người rủ rê, cảnh giới 04 vụ để bị cáo Võ Nhựt T thực hiện hành vi chiếm đoạt H sản của các bị hại và 01 vụ chính bị cáo H là người thực hiện hành vi chiếm đoạt H sản của bị hại, bị cáo dùng điện thoại chiếm đoạt nhắn tin cho bạn bị hại với mục đích đòi tiền chuộc lại H sản, bị cáo là người chuẩn bị phương tiện phạm tội và cùng bị cáo T đi tiêu thụ H sản chiếm đoạt. Đối với bị cáo Võ Nhựt T một mình thực hiện 01 vụ trộm cắp và cùng đồng phạm thực hiện 05 vụ trộm cắp, bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt H sản của các bị hại 05 vụ, cảnh giới 01 vụ và cùng bị cáo H đi tiêu thụ H sản chiếm đoạt. Do đó, các bị cáo pH chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H phạm tội H lần, tuy nhiên trong đó có một lần chiếm đoạt H sản trị giá dưới 2.000.000đồng. Mặc dù bị cáo H không có nghề nghiệp, lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính nhưng do trong vụ án này, H phạm tội bốn lần nên không đủ căn cứ xác định H phạm tội có tính chất cHên nghiệp.

Bị cáo Võ Nhựt T phạm tội sáu lần, trong đó có một lần chiếm đoạt H sản trị giá dưới 2.000.000đồng. Tuy bị cáo T không có nghề nghiệp, lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống nhưng Võ Nhựt T là người dưới 18 tuổi, sống phụ thuộc vào gia đình nên T không lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính, do đó không đủ căn cứ xác định T phạm tội có tính chất cHên nghiệp.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T phạm tội 02 lần trở lên nên các bị cáo pH chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H xúi giục Võ Nhựt T là người dưới 18 tuổi phạm tội nên bị cáo pH chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi do bị cáo gây ra nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Võ Nhựt T sinh ngày 20/8/2000 (theo giấy khai sinh) nhưng theo Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 5253/C09B ngày 21/10/2020 của Phân viện khoa học hình sự xác định lúc Võ Nhựt T phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên về mặt nhận Tc việc làm của mình còn sự hạn chế nhất định, bị cáo phạm tội chủ yếu là do bị cáo H rủ rê. Ngoài ra, bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo, được bị hại bãi nại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên khi ấn định hình phạt có xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật.

[7] Về hình phạt:

Đi với mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, nhân thân, tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định khi lượng hình.

Từ những phân tích trên, căn cứ tính chất và mức độ phạm tội thì hành vi của các bị cáo thể hiện sự xem thường kỷ cương pháp luật, lười lao động thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác nên xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về H sản của người khác gây bất bình, tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội nên cần thiết pH cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe cải tạo, giáo dục riêng và tuyên truyền phòng chống tội phạm chung.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Trịnh Công H, Nguyễn Đình H, Đặng Văn Hòa, Nguyễn Văn Hiếu đã nhận tiền bồi thường, còn Đặng Thế H đã nhận lại H sản. Các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong vụ án này, bị cáo Võ Nhựt T phạm tội ở tuổi chưa thành niên, không có H sản riêng, do đó mẹ bị cáo T là bà Võ Thị H đã bồi thường thiệt hại cho các bị hại và không yêu cầu bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H trả lại ½ số tiền bà đã bồi thường cho các bị hại trong các lần H cùng T thực hiện hành vi trộm cắp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về các vấn đề khác:

Đi với việc Võ Nhựt T lén lút chiếm đoạt một điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung A9S vào tháng 8/2020 ở thôn 3, xã Hồng Sơn, hiện nay chưa xác định được bị hại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện H tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là có căn cứ, đúng qui định pháp luật.

Đi với Trương Minh H, sinh H 1986, ở thôn Đại Thiện 2, xã Hàm Hiệp, Huyện H là chủ cửa hàng điện thoại di động Minh H tuy nhiều lần mua điện thoại của Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T nhưng H không biết đây là H sản do H và T phạm tội mà có nên không đủ cơ sở để xử lý Trương Minh H về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ H sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng qui định pháp luật.

Đi với xe mô tô nhãn hiệu Mio không rõ biển số, bà Huỳnh Thị Ngọc H không biết việc H và T sử dụng xe này đi trộm cắp và cũng đã bán xe trên cho một người không rõ họ tên, địa chỉ nên không xem xét xử lý là có căn cứ, đúng qui định pháp luật.

[10] Về án phí: Các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T đều phạm tội “Trộm cắp H sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Võ Huỳnh Ngọc H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16.9.2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Võ Nhựt T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Võ Huỳnh Ngọc H và Võ Nhựt T mỗi bị cáo pH nộp 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, người đại diện theo pháp luật và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/6/2021). Riêng bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2021/HS-ST

Số hiệu:68/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về