Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn D, sinh năm 1982 tại Nam Định.

HKTT: Khu 4, thị trấn R, huyện N, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Không; Học vấn: 9/12 Họ tên cha: Phạm Quốc Kh, sinh năm 1954 (đã chết) Họ tên mẹ: Trần Thị L, sinh năm 1956.

Bị cáo có vợ là Vũ Thị Th, sinh năm 1989, chưa có con Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 25 tháng 7 năm 2016, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt. Chấp hành xong ngày 09 tháng 9 năm 2017.

Ngày 30 tháng 3 năm 2020, bị Công an nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị giam giữ từ ngày 25 tháng 3 năm 2020. hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

- Người bị hại: Chị Trần Mộng C, sinh năm 1995; nơi cư trú: nhà trọ Anh T, khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Quốc G, sinh năm 1991; nơi cư trú: nhà trọ Anh T, khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

(bị cáo có mặt; bị hại và người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn D là đối tượng nghiện ma túy, sống lang thang và không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 3 năm 2020, D đến khu phố Ph, thị trấn H, huyện N tìm người có sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến dãy nhà trọ của ông Anh T, địa chỉ khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện tại phòng trọ số 16 của chị Trần Mộng C không đóng cửa, trên gường ngủ bên trong phòng có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng - gold đang mở nhạc không có người trông coi nên D nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại di động của chị C. D lẻn vào phòng trọ của chị C trộm cắp chiếc điện thoại di động rồi đi ra khỏi phòng thì bị anh Nguyễn Quốc G là người thuê phòng trọ kế bên phòng của chị C phát hiện truy hô. D bỏ chạy vào đường hẻm thuộc khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an thị trấn H đang tuần tra bắt giữ cùng tang vật và bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng - gold.

Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện N thì 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng - gold có giá trị 9.900.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKS-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng - gold là tài sản của chị Trần Mộng C, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại di động nêu trên cho chị C.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và bổ sung về nhân thân của bị cáo vào ngày 30 tháng 3 năm 2020 bị Công an nhân dân huyện N tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 12 tháng đến 14 tháng tù.

- Bị cáo Phạm Văn D không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu và bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:

Bị hại và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên đã có lời khai trong hồ sơ nên căn cứ Điều 292, 293 xét xử vắng mặt.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo đã có hành vi trộm cắp cụ thể như sau: Vào khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 3 năm 2020, tại phòng trọ số 16 thuộc dãy nhà trọ của ông Anh T, địa chỉ khu phố Ph, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Phạm Văn D đã trộm cắp của chị Trần Mộng C 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu hồng - gold có giá trị 9.900.000 đồng.

Như vậy, đã có đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo Phạm Văn D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu, không kiếm việc làm về nuôi sống bản thân mà sống lang thang, trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài nên cần phải xử phạt một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo và tính chất của vụ án nhằm giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tài sản thu hồi đã trả lại cho bị hại là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[4] Về biện pháp tư pháp: Chị Trần Mộng C đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn D 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 3 năm 2020.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2020/HS-ST

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về