Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SN LA

BẢN ÁN 67/2024/HS-ST NGÀY 17/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 17 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sn La, xét xử S thẩm công khai vụ án hình sự S thẩm thụ lý số: 71/2023/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn H, sinh năm 1992, tại huyện Sông M, tỉnh Sn La;

Nơi cư trú: Bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, tỉnh Sn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Lò Văn D và bà Lò Thị B; bị có vợ là Lường Thị Du và 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Có 02 tiền án. Ngày 10/03/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 11/8/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/11/2023 cho đến nay; có mặt.

* Bị hại: Anh Lò Văn K, sinh năm 1990; nơi cư trú: Bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, tỉnh Sn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ S vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 50 phút ngày 03/11/2023 tổ công tác Công an xã Chiềng S, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực bản Bon Tiến, xã Chiềng S, huyện Sông Mã thì nghe thấy tiếng truy hô bắt trộm. Quan sát thấy có một đối tượng đang điều khiển xe mô tô hướng thị trấn Sông Mã - đi xã Mường Lầm, huyện Sông Mã, thấy vậy tổ công tác đã khống chế được đối tượng và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26C1 - xxxxx. Đối tượng khai nhận tên là Lò Văn H, sinh năm 1992 trú tại bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, chiếc xe mô tô trên là do H trộm cắp được. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn H và tạm giữ chiếc xe mô tô. Xét thấy vụ việc có dấu hiệu tội Trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 173 BLHS, cùng ngày Công an xã Chiềng S, huyện Sông Mã đã chuyển toàn bộ hồ S, đối tượng và vật chứng đến Công an huyện Sông Mã để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 05/11/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã, tiến hành Trưng cầu định giá tài sản đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26C1 - xxxxx.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 46/KL ngày 06/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sông Mã, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave biển kiểm soát 26C1 - xxxxx, đã qua sử dụng trị giá 9.000.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn H khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 03/11/2023 H một mình đi bộ lang thang trong bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, khi đến trước nhà anh Lò Văn K, sinh năm 1990 phát hiện có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26C1 - xxxxx đang dựng trước sân và vẫn cắm chìa khoá ở ổ khoá điện nên H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt để đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. H quan sát sung quanh không có người nên đã tiến lại gần chiếc xe mô tô, rồi bật chìa khoá và nổ máy điều khiển hướng thị trấn Sông Mã - xã Mường Lầm, huyện Sông Mã. Lúc H nổ xe có tiếng ồn nên anh K ở trong nhà phát hiện và chạy ra, đồng thời truy hô đuổi theo, khi H điều khiển xe mô tô đến địa phận bản Bon Tiến, xã Chiềng S thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng S, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu.

Kết quả xác định và khám nghiệm hiện trường vụ Trộm cắp tài sản, lập vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 09/11/2023: Được xác định là sân và nhà của anh Lò Văn K, sinh năm 1990 trú tại bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, loại nhà cấp 4, tường gạch 10cm với diện tích là (12x8)m. Hướng đông tiếp giáp với nhà ông Lò Văn N; hướng Tây tiếp giáp với nhà ông Lò Văn L; hướng Nam tiếp giáp khu vực đất trống; hướng Bắc là sân nhà tiếp giáp với tỉnh lộ 12. Quá trình khám nghiệm đã tiến hành xác định vị trí dựng xe mô tô, phù hợp với hiện trường và lời khai người bị hại Lò Văn K.

Cáo trạng số 17/CT-VKSSM ngày 27 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Lò Văn H về tội: Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về các tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội: Trộm cắp tài sản Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự S thẩm theo quy định.

Bị cáo Lò Văn H không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại: Anh Lò Văn K đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt, nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, ý kiến của bị hại, các tài liệu khác có trong hồ S vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ S vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 03/11/2023 lợi dụng sự S hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, Lò Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave, BKS 26C1 – xxxxx của anh Lò Văn K; trú tại: Bản M, xã Chiềng S, huyện Sông Mã, Sn La, trị giá 9.000.000 đồng, mục đích đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân thì bị phát hiện và bị bắt quả tang.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; biên bản khám nghiệm hiện trường và kết luận định giá tài sản số 46/KL ngày 06/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sông Mã. Bị cáo đã 02 lần bị kết án, đều chưa được xóa án tích, hành vi phạm tội lần này là trường hợp đã tái phạm còn tiếp tục tái phạm thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Lò Văn H thực hiện đã phạm tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người bị hại được pháp luật bảo vệ và xã hội lên án mà còn gây ảnh H đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe phòng ngừa chung và cải tạo riêng.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo H tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave biển kiểm soát 26C1 - xxxxx đăng ký mang tên Tô Minh Tuấn do anh Lò Văn K mua lại nhưng không làm thủ tục sang tên. Xe không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng và là tài sản hợp pháp của anh K. Ngày 20/12/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã trao trả lại chiếc xe mô tô cho chủ sở hữu là có căn cứ pháp luật

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại anh Lò Văn K đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave biển kiểm soát 26C1 - xxxxx do bị cáo Lò Văn H đã chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự S thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Lò Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/11/2023.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn H phải chịu án phí hình sự S thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/01/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2024/HS-ST

Số hiệu:67/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về