Bản án về tội trộm cắp tài sản số 66/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 07/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2021/HSST ngày 02 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn Đ, tên gọi khác: không, sinh năm 1996 tại Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp A, xã K, huyện Y, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh A, sinh năm 1970 và mẹ Nguyễn Thị Th, sinh năm 1972; bản thân chung sống như vợ chồng với Trần Thị Lan H, có 02 con lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20- 4-2021 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Trần Thế V, sinh năm 1982.

ĐKTT: Khóm A, phường B, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Chỗ ở: Số 260 đường N, khu phố A, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Nguyễn Minh H1, sinh năm 1966 ĐKTT: Số 260 đường N, khu phốA, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

- Người làm chứng: Huỳnh Ngọc V1, sinh năm 1979 ĐKTT: Khu phố A, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 11/02/2021, Lê Văn Đ đi bộ từ ấp 1A, xã An Thạnh, huyện Bến Lức đến gặp người bạn tên Hồ đang ở trọ tại nhà trọ T, địa chỉ số 260 đường N, khu phố A, thị trấn B, huyện B. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày Đ ra về, khi đi bộ đến phòng trọ số 02 của nhà trọ T thì phát hiện có xe mô tô hiệu Suzuki, loại xe Hayate, biển số 59L1-205.73 của anh Trần Thế V, đang dựng trước cửa phòng trọ, đuôi xe hướng ra đường N, trên xe không có chìa khóa, xe không khóa cổ. Đ quan sát thấy không người trông coi xe nên nảy sinh ý định lấy trộm xe trên. Đ đi bộ đến vị trí chiếc xe mô tô đang dựng và lén lút dẫn xe mô tô biển số 59L1- 205.73 ra đường N, khi đến khu vực chợ Thuận Đạo thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức thì bị Lực lượng Công an thị trấn Bến Lức tuần tra phát hiện và mời Đ về trụ sở Công an thị trấn Bến Lức làm việc, qua đó Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐG ngày 10/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Lức, định giá: 01 xe mô tô hiệu Suzuki, loại xe Hayate, biển số 59L1-205.73 có giá trị là 2.750.000đ.

Tại cáo trạng số 69/CT-VKSBL ngày 01-7-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Đ hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội đúng pháp luật, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 như cáo trạng của viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo là đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, tài sản thu hồi giao trả lại cho bị hại, do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Lê Văn Đ từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 20- 4-2021.

Do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bi hại anh Trần Thế V đã nhận lại xe mô tô đã bị mất trộm, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xét đến.

Về vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Suzuki, loại xe Hayate, biển số 59L1- 205.73 thuộc sở hữu của anh Trần Thế V, hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức đã trả lại xe cho anh V là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu, bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không oan sai bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản định giá tài sản, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa nên có đủ cơ sở khẳng định xuất phát từ việc không tiền tiêu xài nên khoảng 22 giờ ngày 11/02/2021, Lê Văn Đ lén lút lấy trộm xe mô tô hiệu Suzuki, loại xe Hayate, biển số 59L1-205.73 trị giá 2.750.000đ của anh Trần Thế V, đang dựng trước cửa phòng trọ số 2 nhà trọ T, địa chỉ số 260 đường N, khu phố A, thị trấn B, huyện B. Khi Đ đang dẫn bộ xe mô tô đến chợ Thuận Đạo thì bị Lực lượng Công an thị trấn Bến Lức phát hiện. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, do đó Cáo trạng Viện kiểm sát huyện Bến Lức truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự địa phương. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả của vụ án cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, thời gian tạm giữ, tạm giam cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[3] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, xét thấy theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị hại anh Trần Thế V đã nhận lại xe mô tô đã bị mất trộm, không yêu cầu gì về dân sự nên không xét đến.

[5] Về vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Suzuki, loại xe Hayate, biển số 59L1- 205.73 thuộc sở hữu của anh Trần Thế V, hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức đã trả lại xe cho anh V là phù hợp không xét đến.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Lê Văn Đ 05 (năm) tháng 17 (mười bảy) ngày tù, thời gian tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20-4-2021.

Áp dụng Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Lê Văn Đ, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lê Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 66/2021/HS-ST

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về