Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN H, Sinh năm: 1996 tại tỉnh P.

Nơi ĐKTT và chổ ở: Khu phố 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: không rõ; Mẹ là bà Nguyễn Thị T. Chưa có vợ, con.

Tiền án: không; Tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 12/5/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 09 tháng tù về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 65/HSST). Ngày 23/03/2016 chấp hành xong hình phạt tù. Đã được xóa án tích.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Huỳnh Thị L, sinh năm: 1967. Trú tại: khu phố 3, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 13/8/2021, Nguyễn Văn H điều khiển xe máy biển số 86AM-006.58 đi từ nhà của mình thuộc khu phố 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận đến các tuyến đường thuộc phường Đ, thành phố P với mục đích trộm cắp tài sản của người khác lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 15 giờ 40 phút, khi đến trước số nhà 82 Đường T thuộc khu phố 3, phường Đ, thành phố P, bị cáo H thấy bà Huỳnh Thị L (sinh năm: 1967, trú tại: khu phố 3, phường Đ, thành phố P ) đang nằm ngủ trên ghế, trên nóc tủ lạnh trong nhà có 01 chiếc máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64GB, màu xanh đang sạc pin nên đã lén lút đột nhập vào lấy trộm và tẩu thoát.

Bị mất tài sản, bà Huỳnh Thị L đến Công an phường Đ trình báo. Công an phường đã tiến hành xác minh, xác định Nguyễn Văn H là người lấy trộm tài sản nên đưa H về trụ sở làm việc. Tại đây, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng thời tự nguyện giao nộp chiếc máy tính bảng vừa lấy trộm của bà L .

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64GB (SM-P615) màu xanh và 01 ốp lưng màu vàng nhạt (do H giao nộp).

- 01 (một) xe máy biển số 86AM-006.58, nhãn hiệu HONDA, loại xe hai bánh dưới 50 cm3, màu xanh, xe đã qua sử dụng (thu giữ của H) - 01 (một) USB màu đỏ đen hiệu SanDisk ghi lại diễn biến vụ trộm cắp tài sản xảy ra vào ngày 13/8/2021 tại số nhà 82 đường T, khu phố 3, phường Đ. (Bút lục 66-68) Tại Kết luận định giá số 201/KL-HĐĐG ngày 01/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P kết luận: 01 máy tính bảng Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64Gb màu xanh và 01 chiếc ốp lưng màu vàng trị giá: 6.771.000 đồng.

Về dân sự: Bị hại Huỳnh Thị L đã nhận lại tài sản là máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64GB do Cơ quan điều tra giao trả, ngoài ra không có yêu cầu bồi thường gì khác đối với bị cáo H.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản nêu trên.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 28/CT – VKS PT - HS ngày 29 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P , tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, bất chấp hậu quả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H với mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại Huỳnh Thị L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự nên không buộc bị cáo phải bồi thường.

Bị cáo H không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Kiểm sát viên đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn H: sau khi phạm tội bị cáo rất ân hận về hành vi đã thực hiện mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội các bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố P, cũng như lời khai của bị hại và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 15 giờ ngày 13/8/2021, tại khu phố 7, phường Đ , Nguyễn Văn H lén lút trộm cắp 01 chiếc máy tính bảng, hiệu Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64Gb màu xanh trị giá 6.771.000 đồng của bà Huỳnh Thị L.

Do vậy hành vi của Nguyễn Văn H đã thực hiện như đã nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Nguyễn Văn H vì động cơ tư lợi cá nhân đã cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quan hệ về quyền sở hữu hợp pháp của công dân mà còn gây mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã tự nguyện giao nộp tại tài sản trộm cắp, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự do Nguyễn Văn H đã tự nguyện giao nộp chiếc máy tính bảng vừa lấy trộm của bà L để cơ quan Công an tiến hành thu hồi nhầm khắc phục hậu quả, Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa bị cáo khai, sau khi bị cáo bị Công an phường Đ mời đến trụ sở làm việc, do bị cáo xác định không thể chối tội được nên đã khai về việc mình đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại và đồng thời giao nộp tài sản lấy trộm với Công an phường Đ, nên không thuộc trường hợp người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, do đó không áp dụng tình tiết này đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại không có yêu cầu bồi thường về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là chiếc máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab S6 Lite 64GB màu xanh và 01 ốp lưng màu vàng nhạt nêu trên, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Huỳnh Thị L, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với tang vật là chiếc xe mô tô biển số 86AM-006.58, quá trình điều tra, xác định chiếc xe mô tô trên do ông Nguyễn Văn M (sinh năm: 1967, HKTT: thôn P, xã L, huyện P) làm chủ sở hữu, sau đó giao lại cho con gái là chị Nguyễn Thị Kim A (sinh năm: 2002, HKTT: thôn P, xã L, huyện P) sử dụng. Vào chiều ngày 13/8/2021, chị A cho H mượn xe và không biết H mượn xe để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã trả lại chiếc xe trên cho chị A theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/5/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về