Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 44/2021/HSST ngày 23 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Hoàng Minh N; giới tính: Nam; sinh năm: 1994; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 336 đường H, Phường Q, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không; con ông: Hoàng Văn T, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Minh H, sinh năm 1970; vợ, con: chưa có, nhân thân: Ngày 28/6/2016 bị Tòa án nhân dân quận T ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, tiền sự: Ngày 02/11/2018 bị Tòa án nhân dân quận B ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 30/7/2020; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/12/2020 – Có mặt.

2/ Võ Tôn T; giới tính: Nam; sinh năm: 1997; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 74/13/29 Liên Khu A, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Không; con ông: Võ Tôn T, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị Tuyết V, sinh năm 1978; vợ: Nguyễn Mỹ N, sinh năm 2001; và con 01 người, sinh năm 2017, tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/12/2020 – Có mặt.

Bị hại: Anh Trần Đại P, sinh năm 2000; trú tại: Phòng số 5, nhà số 137/78 đường G, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 08/12/2020, Võ Tôn T nhắn tin rủ Hoàng Minh N đi trộm cắp tài sản, N đồng ý. Sau đó cả hai gặp nhau tại trước khu vực bệnh viện quận B thì T đưa xe gắn máy hiệu Honda Future, biển số: 84H1- 031.67 để N chở T đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà trọ số 137/18 G, phường T, quận T, N phát hiện có xe gắn máy để trước cửa phòng trọ, không người trông coi nên N dừng xe và nói T ở ngoài cảnh giới còn N đi bộ vào tiếp cận xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 78L1- 129.90 của anh Trần Đại P, không khóa cổ xe. Lúc này, N lén đến lấy trộm và đẩy lùi xe máy trên ra đến đầu hẻm nhà trọ 137/18 G, phường T, quận T thì gặp chị Lê Thị Ngọc C là chủ nhà trọ đi vào, thấy nghi ngờ nên chị C nắm càng đuôi xe gắn máy để kéo lại nhưng bị tuột tay nên chị C tri hô. Sau đó, N đẩy xe gắn máy vừa trộm được đến vị trí T đang đứng chờ sẵn để T điều khiển xe gắn máy biển số 84H1- 031.67 dùng chân đẩy N điều khiển xe gắn máy vừa trộm được ra hướng đường T để tẩu thoát. Khi cả hai đến trước nhà số 214-216 T, phường Q, quận T thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Tân Quý kết hợp với Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Tân Phú kiểm tra bắt giữ cùng tang vật.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 64/KL-HDĐGTS-TTHS ngày 15/01/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú, 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 78L1-129.90 trị giá 10.000.000 đồng.

Vật chứng:

- Thu giữ của Hoàng Minh N:

+ 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 78L1- 129.90, số máy : E3X9E-086502, số khung : RLCUE3210HY032955, là tài sản N và T trộm cắp của anh Trần Đại P. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh P và anh P không có yêu cầu gì khác;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 số Imei: 357086109139418, N sử dụng liên lạc với T rủ đi trộm cắp tài sản;

+ 01 mũi đoản, N dùng để phá ổ khóa xe gắn máy;

+ 01 áo khoác dài tay màu xanh dương, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh lam, 01 quần jean lửng màu xanh đen; 01 đôi dép quai ngang làm bằng cao su màu xám; 01 mũ bảo hiểm màu xanh lá cây ghi chữ Grab, là trang phục N mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Thu giữ của Võ Tôn T:

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số: 84H1- 031.67, số máy: JC54E- 2054944, số khung: RLHJC5384EY036650. Là phương tiện T và N sử dụng đi trộm cắp tài sản. T khai nhận mua xe gắn máy này của một người tên S (chưa rõ lai lịch) với giá 4.000.000 đồng. Qua xác minh, xe gắn máy trên do ông Nguyễn Văn Đ thường trú: ấp D, xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh đứng tên chủ sở hữu; xác minh địa chỉ này xác nhận ông Nguyễn Văn Đ đã mất. Giám định số khung, số máy trên không thay đổi.

+ 01 điện thoại Sam sung số Imei: 358587109940563, T sử dụng liên lạc với N để đi trộm cắp tài sản;

+ 01 áo khoác dài tay màu đen, 01 quần jean ống dài màu xám, 01 đôi dép được làm bằng cao su màu đen, là trang phục T mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Thu giữ của chị Lê Thị H:

01 đĩa DVD bên trong chứa nội dung hình ảnh camera liên quan đến vụ việc “trộm cắp tài sản” lúc 3 giờ 40 phút ngày 8/12/2020 tại 137/18 G, phường Q, quận T (kèm hồ sơ vụ án).

Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSQTP ngày 22 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Minh N từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Tôn T từ 09 tháng tù đến 01 năm tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 03 giờ 00 phút ngày 08/12/2020, Võ Tôn T rủ Hoàng Minh N đi trộm cắp tài sản, N đồng ý. Sau đó N và T gặp nhau trước khu vực bệnh viện quận B, N sử dụng xe gắn máy mang biển số 84H1 – 031.67 chở T đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà trọ số 13 7/18 đường G, phường Q, quận T thì N phát hiện có 01 xe gắn máy để trước cửa phòng trọ không người trông coi nên N dừng xe và nói T ở ngoài cảnh giới còn N đi bộ vào trong tiếp cận xe gắn máy hiệu Yamaha mang biển số 78L1 – 129.90 của anh Trần Đại P, N lén đến lấy trộm và đẩy lùi xe ra đến đầu hẻm nhà trọ thì gặp chị Lê Thị Ngọc C nghi ngờ nắm đuôi xe kéo lại nhưng bị tuột tay nên chị C tri hô. Sau đó N đẩy xe gắn máy vừa trộm được để T điều khiển xe gắn máy biển số 84H1 – 031.67 dùng chân đẩy ra hướng đường T để tẩu thoát. Khi đến trước nhà số 214-216 đường T, phường Q, quận T thì bị lực lượng tuần tra Công an quận Tân Phú kiểm tra và bắt giữ cùng tang vật.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút chiếm đoạt chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius trị giá 10.000.000 đồng, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân các bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo T là người rủ bị cáo N thực hiện hành vi phạm tội và là người điều khiển xe đẩy xe N trộm cắp tẩu thoát là người giúp sức tích cực. Bị cáo N là người phát hiện ra tài sản và là người thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe gắn máy, nên vai trò của hai bị cáo là ngang nhau.

[5] Về nhân thân: Bị cáo N là người có nhân thân xấu, vào ngày 28/6/2016 bị Tòa án nhân dân quận T ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng ; ngày 02/11/2018 bị Tòa án nhân dân quận B ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 30/7/2020, đây là tình tiết cần lưu ý xem xét khi lượng hình.

[6] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 78L1- 129.90, đã thu hồi trả lại cho anh Trần Đại P, anh P không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng:

+ 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 78L1- 129.90, số máy E3X9E-086502, số khung RLCUE3210HY032955, là tài sản N và T trộm cắp của anh Trần Đại P. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh P nên Hội đồng xét xử không xử lý.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galax y A20 số Imei: 357086109139418 thu giữ của bị cáo N và 01 điện thoại Samsung số Imei: 358587109940563 thu giữ của bị cáo T. Các bị cáo khai sử dụng liên lạc rủ nhau đi trộm cắp tài sản, đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ 01 mũi đoản; 01 áo khoác dài tay màu xanh dương, 01 áo sơ mi dài tay màu xanh lam, 01 quần jean lửng màu xanh đen; 01 đôi dép quai nga ng làm bằng cao su màu xám; 01 mũ bảo hiểm màu xanh lá cây ghi chữ Grab thu giữ của bị cáo N và 01 áo khoác dài tay màu đen, 01 quần jean ống dài màu xám, 01 đôi dép lê được làm bằng cao su màu đen, thu giữ của bị cáo T , đây là tài sản không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo qui định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 84H1- 031.67, số máy: JC54E- 2054944, số khung: RLHJC5384EY036650. Là phương tiện T và N sử dụng đi trộm cắp tài sản. T khai nhận mua xe gắn máy này của một người tên S (chưa rõ lai lịch) với giá 4.000.000 đồng. Qua xác minh, xe gắn máy trên do ông Nguyễn Văn Đ đứng tên chủ sở hữu; xác minh địa chỉ này xác nhận ông Nguyễn Văn Đ đã chết. Giám định số khung, số máy trên không thay đổi, tuy nhiên theo kết quả xác minh thì không tìm thấy dữ liệu về nguồn gốc xe. Các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ 01 đĩa DVD bên trong chứa nội dung hình ảnh camera liên quan đến vụ việc “trộm cắp tài sản” lúc 3 giờ 40 phút ngày 8/12/2020 tại 137/18 G, phường Q, quận T (kèm hồ sơ vụ án), đây là vật chứng của vụ án nên tiếp tục lưu hồ sơ.

[9] Án phí: Các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2] Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hoàng Minh N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 12 năm 2020

[3] Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Tôn T 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 12 năm 2020

[4] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 số Imei: 357086109139418 thu giữ của bị cáo N và 01 (một) điện thoại Sam sung số Imei: 358587109940563 thu giữ của bị cáo T.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe gắn máy hiệu Honda Future BKS: 84H1 – 031.67, số máy: JC54E-2054944, số khung: RLHJC5384EY036650, quá hạn 06 tháng mà không tìm được thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mũi đoản; 01 (một) áo khoác dài tay màu xanh dương, 01 (một) áo sơ mi dài tay màu xanh lam, 01 (một) quần jean lửng màu xanh đen; 01 (một) đôi dép quai ngang làm bằng cao su màu xám;

01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh lá cây ghi chữ Grab thu giữ của bị cáo Nhật và 01 (một) áo khoác dài tay màu đen, 01 (một) quần jean ống dài màu xám, 01 (một) đôi dép được làm bằng cao su màu đen, thu giữ của bị cáo T.

(Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 26/PNK ngày 24/02/2021 của Công an quận Tân Phú)

[6] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Hoàng Minh N, Võ Tôn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2021/HS-ST

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về