Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MT, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 09/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện MT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2023/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Lùng Văn Đ- sinh năm 2003, tại huyện MT, tỉnh Lai Châu.

Nơi ĐKHKTT: Khu phố A, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 4/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ đoàn thể, chính quyền: Không; Bố đẻ: Lùng Văn V, sinh năm 1977, mẹ đẻ: Lò Thị X, sinh năm 1978; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, tiền sự: 02. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện MT, tỉnh Lai Châu đến nay có mặt tại phiên tòa. Có mặt.

Bị hại:

Phan Thị L, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Khu phố 8, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu. Có đơn xin vắng mặt.

Lê Kim T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Khu phố 12, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 22/01/2023, Lùng Văn Đ, sinh ngày 26/7/2003, đi bộ từ nhà tại Khu phố A, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu lên khu phố 7, thị trấn MT để tìm mua ma túy sử dụng. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, khi Đ đi đến khu phố 7, thị trấn MT Đ nhìn thấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nozza, màu đỏ, biển kiểm soát 25M1 - 120.7x của chị Phan Thị L, sinh năm 1985, trú tại khu phố 8, Thị trấn MT, trên xe có cắm chìa khóa đang dựng ở dọc đường lên trường trung học cơ sở thị trấn MT thuộc khu phố 7, thị trấn MT. Đ quan sát xung quanh không có người trông coi, nên Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe đó để làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó, Đ đã tiến lại gần chiếc xe máy, rồi nổ máy điều khiển xe đi đến bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn để tìm mua ma tuý sử dụng. Tại bản Pa Mu, Đ mua được của 01 người phụ nữ dân tộc Mông lạ mặt được 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng và sử dụng hết số ma tuý. Sau khi sử dụng ma túy xong, Đ đi tìm nhặt sắt vụn trong bản Pa Mu thì bị người dân trong bản phát hiện nghi vấn Đ trộm cắp tài sản và đã báo cho Công an xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn đến làm việc. Do Đ không cung cấp được giấy tờ và nguồn gốc chiếc xe máy nêu trên, nghi ngờ đó là tài sản trộm cắp mà có, nên Công an xã Hua Bum đã tạm giữ chiếc xe máy tại trụ sở Công an xã Hua Bum để điều tra, xác minh làm rõ.

Khoảng 11 giờ ngày 24/01/2023, Lùng Văn Đ, đi bộ từ nhà ở của Đ thuộc Khu phố A, thị trấn MT lên bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn để tìm mua ma túy sử dụng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi Đ đi bộ đến khu vực cửa phòng trọ của anh Lê Kim T, sinh năm 1985, trú tại: khu phố 12, thị trấn MT thì thấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu xanh, biển kiểm soát 25M1 – 105.xx có cắm sẵn chìa khóa đang dựng ở ngoài đường (Chiếc xe này thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lê Kim T), xung quanh không có người trông coi, nên Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy này làm phương tiện đi lên bản Pa Mu, xã Hua Bum để mua ma túy. Sau đó, Đ đến gần chiếc xe máy, rồi mở chìa khóa nổ máy đi đến bản Pa Mu để tìm mua ma tuý sử dụng. Tại bản Pa Mu, Đ mua được của 01 người phụ nữ dân tộc Mông lạ mặt được 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng và đã sử dụng hết. Sau khi sử dụng ma túy xong, đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì Đ điều khiển chiếc xe máy đã trộm cắp được về giấu trong bụi cây tại Khu phố A, thị trấn MT rồi đi về nhà ngủ. Đến khoảng 09 giờ ngày 02/02/2023, Đ lấy chiếc xe máy trên rồi điều khiển đến bản Đầu Nậm Xả, xã Bum Tở, huyện MT để tìm mua ma túy để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, khi Đ đang điều khiển chiếc xe máy nói trên đi trong khu vực bản Đầu Nậm Xả, thì bị Công an thị trấn MT phát hiện và đưa Đ, cùng chiếc xe máy trên về trụ sở làm việc. Tại cơ quan điều tra, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS ngày 04/2/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện MT đã kết luận:

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha, màu sơn xanh, đen, bạc, biển kiểm soát 25M1 – 105.xx có trị giá là 9.500.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐGTS ngày 08/2/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện MT đã kết luận:

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Nozza, màu đỏ, biển kiểm soát 25M1 – 120.7x có trị giá là 18.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 29/CT- VKS-MT ngày 05/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MT đã truy tố Lùng Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lùng Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm 04 tháng tù.

Trách nhiệm dân sự: Các bị hại, không yêu cầu gì nên không đề nghị giải quyết.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện kiểm sát, không bổ sung gì. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, các bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện MT, tỉnh Lai Châu- Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện MT, tỉnh Lai Châu- Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, đơn trình báo, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án đã có đủ căn cứ kết luận: Lợi dụng sơ hở trong việc trông coi, quản lý tài sản, Lùng Văn Đ đã 02 lần trộm cắp tài sản là 02 chiếc xe máy để sử dụng làm phương tiện đi lại mua ma túy sử dụng. Cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 22/01/2023, tại tuyến đường thuộc khu phố 7, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu, Lùng Văn Đ đã trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nozza biển kiểm soát 25M1 - 120.7x có trị giá là 18.000.000 đồng của chị Phan Thị L.

Lần thứ hai: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/01/2023, tại khu vực đường thuộc khu phố 12, thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu, Lùng Văn Đ đã trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha biển kiểm soát 25M1 – 105.xx có trị giá 9.500.000 đồng của anh Lê Kim T.

Như vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị là 27.500.000 đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lùng Văn Đ có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lùng Văn Đ đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ cận nghèo của UBND thị trấn MT. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Phan Thị L xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền sự.

Theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng số 01/2020/QĐ-TA ngày 16/3/2020 của Toà án nhân dân huyện MT thời hạn chấp hành tại trường giáo dưỡng 24 tháng. Đến ngày 04/02/2022, Lùng Văn Đ đã chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Như vậy, tính đến thời điểm phạm tội là ngày 22/01/2023, bị cáo Lùng Văn Đ chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 36/QĐ-XPHC ngày 31/5/2022 của Cơ quan Công an huyện MT, tỉnh Lai Châu về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý xử phạt mức phạt 2.000.000 đồng. Đến nay Lùng Văn Đ chưa nộp phạt số tiền này. Như vậy, tính đến thời điểm phạm tội là ngày 22/01/2023, bị cáo Lùng Văn Đ chưa được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và nhân thân của bị cáo về hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời để nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đảm bảo công tác phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là hoàn toàn phù hợp, cần chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo lời khai của bị cáo thì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản để đảm bảo thi hành án, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Trách nhiệm dân sự: Các bị hại, đều đã nhận được tài sản và đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nozza biển kiểm soát 25M1 - 120.7x của chị Phan Thị L và chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha biển kiểm soát 25M1 – 105.xx của anh Lê Kim T. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện MT đã xác định được chiếc xe máy thuộc quyền sở hữu của chị Phan Thị L và anh Lê Kim T. Ngày 10/02/2023 Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 02 chiếc xe máy cho các chủ sở hữu. Việc xử lý vật chứng là đúng quy định pháp luật Hội đồng xét xử chấp nhận và không đề cập giải quyết.

[8] Đối với hành vi mua trái phép chất ma túy với những người không rõ lai lịch của bị cáo Lùng Văn Đ để sử dụng: Kết quả điều tra không xác định được những người đã bán ma túy cho Đ là ai, trong hồ sơ ngoài lời khai duy nhất của Lùng Văn Đ không có tài liệu khác để chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đủ cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở bản có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và thuộc hộ cận nghèo của UBND thị trấn MT. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, các bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lùng Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lùng Văn Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/02/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND thị trấn MT, huyện MT, tỉnh Lai Châu./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về