Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Khắc N, sinh ngày 09/9/1991 tại tỉnh TN; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố NL, phường NT, thành phố TN, tỉnh TN; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1943 (chết) và bà Võ Thị E, sinh năm 1958 (chết); Vợ, con: Không có; Tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân:

- Ngày 18/01/2008, bị Tòa án nhân dân thị xã TN, tỉnh TN xử phạt 07 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, chấp hành tại Trại giam C, đến ngày 01/4/2013 chấp hành xong trở về địa phương sinh sống tại Khu phố NL, phường NT, thành phố TN, tỉnh TN (đã chấp hành xong hình phạt và nghĩa vụ đóng án phí, đã được xoá án tích).

- Ngày 17/12/2013 đến năm 2015, cai nghiện ma túy tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội TN (đã hết thời hạn được xem là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính).

- Ngày 28/4/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Hoà Thành, tỉnh TN xử phạt 05 năm tù giam về tội Cướp giật tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành tại Trại giam C, đến ngày 06/5/2021 chấp hành xong trở về địa phương sinh sống cho đến ngày phạm tội (đã chấp hành xong hình phạt và nghĩa vụ đóng án phí, đã được xoá án tích).

Bị cáo bị tạm giữ ngày 10/5/2023 chuyển tạm giam từ ngày 13/5/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố TN, tỉnh TN; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Thái Trương Phượng G, sinh năm 2000; Địa chỉ: Số X, Đường số Y, TC, khu phố NĐ, phường NT, thành phố TN, tỉnh TN. (Có đơn xin giải quyết vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị D, sinh năm 1972;

Địa chỉ: Ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh TN. (Có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp và cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Khắc N nảy sịnh ý định dạo quanh các tuyến đường tìm những nhà vắng chủ hoặc sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/5/2023, N điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 59S1-155.69 đi ngang nhà chị Thái Trương Phượng G, sinh năm 2000 tại địa chỉ số X, Đường số Y, TC, khu phố NĐ, phường NT, thành phố TN, tỉnh TN thấy nhà đang mở cửa, không người trông coi. N để xe ngoài cổng rào rồi đi vào phòng khách thì phát hiện một điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu đen và một điện thoại di động Oppo A16, màu trắng của chị G để trên bàn nên N lén lút lấy trộm hai điện thoại cất giấu vào túi quần rồi ra xe tẩu thoát. Sau đó, Nghĩa đến tiệm điện thoại H, địa chỉ số Z, đường C, Khu phố A, Phường B, thành phố TN gặp bà Ngô Thị D, sinh năm 1972, ngụ Ấp T, xã T, thị xã H, tỉnh TN là chủ cửa tiệm, nói dối là điện thoại di động của N, do cần tiền nên bán. Bà D tin tưởng nên đã mua lại hai điện thoại với giá 1.700.000 đồng. Sau khi có được tiền bán điện thoại, Nghĩa dùng mua ma tuý sử dụng hết. Riêng bà D sau khi mua điện thoại đã bán điện thoại Oppo A16 cho người khác với giá 700.000 đồng, điện thoại Iphone 7 Plus bà D tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 17/KLĐG-TTHS ngày 11/5/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố TN: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen, dung lượng 128GB có giá 2.200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A16, màu trắng, ram 3G, dung lượng lưu trữ 32GB có giá 1.800.000 đồng. Tổng cộng 4.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Khắc N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN, tỉnh TN 01 xe mô tô biển số 59S1-155.69, số máy VTT08JL1P52FMH032462, số khung RRKWCHOUMAXS32462, màu sơn đỏ - đen, dán tem có chữ SIRIUSRC; 01 áo sơ mi dài tay, màu trắng có sọc ngang ngực màu xám, có nhiều hình ngôi sao; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 nón bảo hiểm màu xanh có dòng chữ “SYM”. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus, màu đen, dung lượng 128GB đã trả lại cho chủ sở hữu là Thái Trương Phượng G.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Thái Trương Phượng G yêu cầu bồi thường số tiền 1.800.000 đồng. Bà Ngô Thị D yêu cầu bồi thường số tiền 1.000.000 đồng. Hiện bị cáo chưa bồi thường.

Qua xác minh Nguyễn Khắc N không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

* Bản cáo trạng số 58/CT-VKSTPTN ngày 27/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo: Nguyễn Khắc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh TN trình bày bản luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 10/5/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô biển số 59S1-155.69, số máy VTT08JL1P52FMH032462, số khung RRKWCHOUMAXS32462, màu sơn đỏ - đen, dán tem có chữ SIRIUSRC; Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay, màu trắng có sọc ngang ngực màu xám, có nhiều hình ngôi sao; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 nón bảo hiểm màu xanh có dòng chữ “SYM”. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus, màu đen, dung lượng 128GB đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Thái Trương Phượng G.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nghĩa bồi thường cho chị Thái Trương Phượng G số tiền 1.800.000 đồng; bồi thường cho bà Ngô Thị D số tiền 1.000.000 đồng.

* Bị cáo N không tự bào chữa, không tranh luận.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi về hành vi của bị cáo nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Khắc N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/5/2023, tại khu phố Ninh Đức, phường Ninh Thạnh, thành phố TN, tỉnh TN, Nguyễn Khắc N có hành vi lén lút lấy trộm của chị Thái Trương Phượng G 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen, dung lượng 128GB có giá 2.200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A16, màu trắng, ram 3G, dung lượng lưu trữ 32GB có giá 1.800.000 đồng, tổng giá trị 4.000.000 đồng.

Do đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh TN truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật nên cần chấp nhận.

[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất an ninh trật tự địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của bị cáo, về tiền án, tiền sự, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khung hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị Thái Trương Phượng G yêu cầu bồi thường số tiền 1.800.000 đồng. Bà Ngô Thị D yêu cầu bồi thường số tiền 1.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của chị G, bà D nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô biển số 59S1-155.69, số máy VTT08JL1P52FMH032462, số khung RRKWCHOUMAXS32462, màu sơn đỏ - đen, dán tem có chữ SIRIUSRC là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

Đối với 01 áo sơ mi dài tay, màu trắng có sọc ngang ngực màu xám, có nhiều hình ngôi sao; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 nón bảo hiểm màu xanh có dòng chữ “SYM” không còn giá trị sử dụng, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus, màu đen, dung lượng 128GB đã trả lại cho chủ sở hữu là Thái Trương Phượng G xong.

[9] Đối với bà Ngô Thị D, không biết điện thoại do Nguyễn Khắc N trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Khắc N, Công an phường NT, thành phố TN, tỉnh TN đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng.

[10] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 10/5/2023.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Khắc N bồi thường cho chị Thái Trương Phượng G số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm ngàn đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Khắc N bồi thường cho bà Ngô Thị D số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô biển số 59S1-155.69, số máy VTT08JL1P52FMH032462, số khung RRKWCHOUMAXS32462, màu sơn đỏ - đen, dán tem có chữ SIRIUSRC.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay, màu trắng có sọc ngang ngực màu xám, có nhiều hình ngôi sao; 01 quần kaki lửng màu xám; 01 nón bảo hiểm màu xanh có dòng chữ “SYM”.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/6/2023 đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN, tỉnh TN

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016:

Bị cáo Nguyễn Khắc N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 125.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

[5] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về