Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 05/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 05 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2021/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/HSST-QĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa sơ thẩm số 10/2021/TB.TA ngày 24 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, tên gọi khác: không, sinh năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: đường N, khu phố A, thị trấn T, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1968 và bà Tạ Thị Ngọc D1, sinh năm 1972; bản thân có vợ tên Huỳnh Thị Thúy V (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2017; Tiền án: không, Tiền sự: Ngày 27/02/2019 bị Tòa án nhân dân huyện B, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 01/12/2020, chấp hành xong Quyết định; Nhân thân: Ngày 08/02/2018 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 02/8/2018 chấp hành xong bản án; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2021 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Huỳnh Văn Ch, sinh năm 1951 ĐKTT: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt - có đơn xin vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Võ Minh Kh, sinh năm 1983 ĐKTT: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

2. Võ Thanh T1, sinh năm 1981.

ĐKTT: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

3. Huỳnh Quốc M, sinh năm 1986 ĐKTT: Ấp A, xã N, huyện T, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 18/3/2021, Nguyễn Thanh T thuê người chạy xe honda ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) chở từ thành phố Hồ Chí Minh đến địa bàn xã A và xã T, huyện B tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Đến 13 giờ, khi T chạy ngang tiệm hớt tóc “Khải”, địa chỉ ấp 6, xã A, huyện B do anh Võ Minh Kh làm chủ, T phát hiện xe mô tô biển số 62S3-7400 của anh Huỳnh Văn Ch là khách hớt tóc dựng sát vách bên ngoài, quay đầu vào trong, đuôi xe quay ra ngoài, không có người trông giữ. T kêu người chạy xe ôm dừng xe, trả tiền thuê xe rồi đi bộ ngược lại tiệm hớt tóc. T tiếp cận xe mô tô, quan sát xung quanh không có người, xe không khóa cổ nên T sử dụng cây đoản mang theo phá khóa công tắc xe, nổ máy chạy về hướng xã T. Khi T chạy được khoảng 60m thì bị anh Kh phát hiện tri hô, đồng thời gọi điện thoại báo cho anh Võ Thanh T1 hỗ trợ đuổi bắt T. Khi T điều khiển xe mô tô biển số 62S3-7400 chạy đến cầu Bà Tảng thuộc ấp 7, xã T thì bị anh T1 và người dân phát hiện chặn đầu xe. Lúc này, T quăng xe bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tẩu thoát nhưng bị người dân bắt giữ T cùng vật chứng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 24/KL-HDĐG ngày 26/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Lức, định giá: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future X, màu đỏ biển số 62S3-7400 trị giá 19.750.000đ.

Tại cáo trạng số 51/CT-VKSBL ngày 20-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh T hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội đúng pháp luật, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 như cáo trạng của viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo là đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thanh T từ 09 tháng đến 01 năm tù, thời gian tù tính từ ngày 18-3-2021.

Do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với người chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) không biết mục đích của T thuê chở đến huyện Bến Lức để trộm cắp tài sản và không tham gia cùng T thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không xử lý trách nhiệm hình sự là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bi hại anh Huỳnh Văn Ch đã nhận lại xe mô tô biển số 62S3-7400 đã bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xét đến.

Về vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future X, màu đỏ, biển số 62S3-7400 thuộc sở hữu của anh Huỳnh Văn Ch hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức đã trả lại cho anh Ch là phù hợp, riêng cây đoản Nguyễn Thanh T sử dụng phá khóa xe, quá trình bỏ chạy, T làm rớt mất nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không thu giữ được.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu, bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không oan sai bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị hại có đơn xin vắng mặt, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản định giá tài sản, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa nên có đủ cơ sở khẳng định xuất phát từ việc không tiền tiêu xài nên khoảng 13 giờ, ngày 18/3/2021 Nguyễn Thanh T thuê xe honda ôm chở từ thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Bến Lức tìm tài sản trộm cắp. Khi chạy ngang tiệm hớt tóc “Khải”, địa chỉ ấp 6, xã A, huyện B, T phát hiện xe mô tô biển số 62S3- 7400 của Huỳnh Văn Ch trị giá 19.750.000đ đang dựng sát vách bên ngoài, không có người trông giữ nên T trả tiền xe ôm rồi lén lút lấy trộm xe của anh Ch chạy đến cầu Bà Tảng thuộc ấp 7, xã T, huyện Bến Lức thì bị người dân bắt giữ T cùng tang vật. Do đó đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, do đó Cáo trạng Viện kiểm sát huyện Bến Lức truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự địa phương. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả của vụ án cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, xét thấy theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Đối với người chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) không biết mục đích của T thuê chở đến huyện Bến Lức để trộm cắp tài sản và không tham gia cùng T thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không xử lý trách nhiệm hình sự là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bi hại anh Huỳnh Văn Ch đã nhận lại xe mô tô biển số 62S3-7400 đã bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xét đến.

[6] Về vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future X, màu đỏ, biển số 62S3-7400 thuộc sở hữu của anh Huỳnh Văn Ch hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức đã trả lại cho anh Ch là phù hợp không xét đến. Riêng cây đoản bị cáo T sử dụng phá khóa xe, quá trình bỏ chạy, T làm rớt mất nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức không thu giữ được nên không xem xét xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm tù, thời gian tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 18-3-2021.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thanh T trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày 05-10-2021 để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về