Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2021/HSST, ngày 12 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:59/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 và thông báo dời ngày xét xử số 16/TB-TA ngày 14/12/2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Minh P, sinh ngày 10/12/2000; nơi cư trú: số 399 khóm A, phường T, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1973 và bà Thạch Thị Ngọc G, sinh năm 1972. Anh chị em ruột có 05 người, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án: không; tiền sự: 02 lần (Ngày 05/6/2021 bị Công an phường 9, thành phố Trà Vinh xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 29/3/2021 bị Công an thành phố Trà Vinh xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc). Bị bắt tạm giam từ ngày 28/6/2021 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

2. Phan Minh H, sinh ngày 25/02/2002; nơi cư trú: số 746B khóm B phường F, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1960 và bà Phan Bích L, sinh năm 1969. Anh chị em ruột có 02 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2003. Tiền án, tiền sự không. Bị bắt tạm giam từ ngày 22/9/2021 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Bị hại: Chị Trần Thị Ngọc D, sinh năm 1986 (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: khóm T, phường T, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 28/5/2021 bị cáo Lê Minh P, điều khiển xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở bị cáo Phan Minh H, đi trên đường Sơn Vọng khi đến gần tiệm tạp hóa của chị Trần Thị Ngọc D, sinh ngày 10/11/1986, ngụ khóm T, phường T, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh thì bị cáo P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên dừng xe trước tiệm tạp hóa rồi đi vào bên trong tìm tài sản để trộm, còn bị cáo H ở bên ngoài để cảnh giới và lên ngồi phía trước xe mô tô trông tư thế người điều khiển. Khi vào bên trong tiệm tạp hóa thấy không có người trông coi nên bị cáo P tiếp tục đi vào bên trong nhà của chị Diệp thì phát hiện: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A12, màu xanh, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J7 Prime, màu đen, màn hình cảm ứng (có nhiều vết nứt), đã qua sử dụng; 01 (một) cái bóp màu nâu, đã qua sử dụng (bên trong có tiền và thẻ cào điện thoại) được để trên bàn (loại bàn học sinh), bị cáo P liền lấy trộm tài sản trên nhanh chóng đi ra ngoài lên xe ngồi sau để bị cáo H điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Khi về đến nhà của bị cáo P, thì bị cáo P cầm tài sản vừa trộm được đi vào nhà trước và đã lấy 02 điện thoại di động nêu trên ra để riêng không cho bị cáo H biết, sau đó bị cáo P lấy tiền và thẻ cào điện thoại trong bóp ra rồi cùng chia đều với bị cáo H. Sau khi phân chia tài sản vừa trộm cắp được (Không kiểm tra bên trong bóp), bị cáo P và bị cáo H mỗi người được số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) và giá trị thẻ cào điện thoại khoảng 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng). Còn số tiền lẽ khoảng 500.000 đồng thì bị cáo P cất giữ nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu xài chung của hai bị cáo. Sau khi có tiền và thẻ cào điện thoại, hai bị cáo đã tiêu xài và sử dụng các nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 24/BKLĐGTS ngày 09 tháng 6 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh kết luận: Tổng số tài sản của chị Trần Thị Ngọc D bị mất trộm (Thẻ cào điện thoại và 02 điện thoại di động) có giá trị thành tiền là 7.800.000 đồng (Bảy triệu tám trăm ngàn đồng). Như vậy Tổng giá trị tài sản bị mất trộm là 10.300.000 đồng (Mười triệu ba trăm ngàn đồng).

Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ 02 điện thoại nêu trên và 565.000 đồng (Năm trăm sáu mươi lăm ngàn đồng) đã trả cho chủ sở hữu xong.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản thu giữ và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số: 51/CT-VKS-HS ngày 12/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Lê Minh P và Phan Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Lê Minh P và bị cáo Phan Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của các bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 điều 173; điểm i,s khoản 1 điều 51; điều 17; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Minh P từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo Phan Minh H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và buộc các bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận: Để có tiền tiêu xài và hút chích. Vào khoảng 06 giờ ngày 28/5/2021 bị cáo Lê Minh P điều khiển xe mô tô chở bị cáo Phan Minh H đến tiệm tạp hóa của chị Trần Thị Ngọc D, ở khóm T, phường T, thành phố Trà Vinh, H đứng bên ngoài cảnh giới, P đi vào bên trong tiệm lấy trộm: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG GALASY A12 màu xanh, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG GALAXY J7 Prime màu đen, màn hình cảm ứng (có nhiều vết nứt) đã qua sử dụng; 01 cái bóp màu nâu, đã qua sử dụng (bên trong có tiền và thẻ cào điện thoại). Tổng trị giá là 10.300.000 đồng đem về chia nhau tiêu xài.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và tang vật chứng đã thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Minh P và bị cáo Phan Minh H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Lê Minh P và bị cáo Phan Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo Lê Minh P đã có hai lần tiền sự về các hành vi “Trộm cắp và đánh bạc” và là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Do đó, cần xử lý nghiêm hơn so với bị cáo Phan Minh H.

Tuy nhiên, khi phạm tội các bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i,s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Nghĩ nên xem xét cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị Ngọc D không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Minh P và bị cáo Phan Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh P 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2021.

Xử phạt bị cáo Phan Minh H 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/9/2021. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị Ngọc D không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2021/HS-ST

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về