Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Nhật H. Sinh năm 1981 tại Thành phố Hồ Chí Minh . Hộ khẩu thường trú: 884/121 đường L, tổ 53, phường 15, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: 60TL16, tổ 10, khu phố 3, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lưu Quang H và bà: Đỗ Thị Kh; Vợ tên: Nguyễn Nữ Thục N; có 01 người con tên: Lưu Nữ Anh T, sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hóc Môn từ ngày 03/11/2021. Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1989. (có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: 240 đường B, ấp Đ, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 00 phút, ngày 02/11/2021 Lưu Nhật H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 – 5729 đi đến nhà số 240 đường B, ấp Đ, xã T, huyện H do chị Nguyễn Thị H làm chủ thấy đóng cửa Lưu Nhật H quan sát thấy không có người nên dùng tay và chân bẻ và đạp ổ khóa cửa nhà bung ra đột nhập vào trong nhà lấy 01 máy tính bảng hiệu Sam sung, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính, 01 màn hình máy tính, 01 máy tính tiền, 01 bóp da, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy phép lái xe và 01 bảo hiểm mang tên Nguyễn Thị H và số tiền 1.400.000 đồng đem về nơi ở tại nhà số: 60 TL16, tổ 10, KP 3, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu. Sau khi mất tài sản chị Nguyễn Thị H đến Công an xã T trình báo công an lập hồ sơ xử lý.

Qua truy xét Công an xác định Lưu Nhật H là người có liên quan nên đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Lưu Nhật H thu giữ 01 máy tính bảng hiệu Sam sung, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính, 01 màn hình máy vi tính, 01 máy tính tiền, 01 bóp da, 02 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị H.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Lưu Nhật H khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng tạm giữ gồm:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 - 5729, số khung NJ110 - 200084589, số máy 1P50FMG - 3 - 10209320, 01 nón bảo hiểm màu đỏ có dán tem CTY TNHH - TM - SX G.

- 01 máy tính bảng hiệu Sam sung tab, SM: P585Y, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính hiệu Dell màu đen, 01 màn hình máy vi tính Eagle, 01 máy tính tiền hiệu Ocha màu đen đã qua sử dụng, 01 bóp da, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên Phan Duy H, 01 giấy đăng ký xe biển số: 59D1 - 222.04 mang tên Nguyễn Thị V, 01 giấy đăng ký xe biển số 37E1 - 229.88 mang tên Nguyễn Thị H, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị H. Cơ quan Công an đã trả tài sản lại cho chủ sở hữu.

Tại Kết luận định giá tài sản số 163/KL-HĐĐGTS ngày 10/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, định giá trị giá tài sản bị mất trộm là 6.900.000 đồng và 1.400.000 đồng tiền mặt bị mất trộm. Tổng cộng là 8.300.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 43/CT-VKS-HS ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn truy tố bị cáo Lưu Nhật H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lưu Nhật H từ 12 tháng tù giam đến 18 tháng tù giam.

- Về xử lý vật chứng:

+ 01 máy tính bảng hiệu Sam sung tab, SM: P585Y, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính hiệu Dell màu đen, 01 màn hình máy vi tính Eagle, 01 máy tính tiền hiệu Ocha màu đen đã qua sử dụng, 01 bóp da, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên Phan Duy H, 01 giấy đăng ký xe biển số: 59D1 - 222.04 mang tên Nguyễn Thị V, 01 giấy đăng ký xe biển số 37E1 - 229.88 mang tên Nguyễn Thị H, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị H. Cơ quan Công an đã trả tài sản lại cho chủ sở hữu nên không xem xét.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu đỏ có dán tem CTY TNHH - TM - SX G là vật không có giá trị sử dụng.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 - 5729, số khung NJ110 - 200084589, số máy 1P50FMG - 3 - 10209320. Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu nên đề nghị giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn tiếp tục xác minh chủ sở hữu và xử lý thep quy định của pháp luật.

- Về dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 1.400.000 đồng đã bị mất trộm.

 Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị cáo đồng ý với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo Lưu Nhật H và và bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, lời khai của bị cáo, bị hại trong hồ sơ đã rõ, tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đồng ý và đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của bị cáo, bị hại không trở ngại cho việc xét xử. Do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290, khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo, bị hại.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, qua xem xét tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Lưu Nhật H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo thừa nhận vào lúc 00 giờ 00 phút, ngày 02/11/2021 Lưu Nhật H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 – 5729 đi đến nhà số 240 đường B, ấp Đ, xã T, huyện H do chị Nguyễn Thị H làm chủ thấy đóng cửa Lưu Nhật H quan sát thấy không có người nên dùng tay và chân bẻ và đạp ổ khóa cửa nhà bung ra đột nhập vào trong nhà lấy 01 máy tính bảng hiệu Sam sung, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính, 01 màn hình máy tính, 01 máy tính tiền, 01 bóp da, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy phép lái xe và 01 bảo hiểm mang tên Nguyễn Thị H và số tiền 1.400.000 đồng đem về nơi ở tại nhà số: 60 TL16, tổ 10, KP 3, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn nên Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lưu Nhật H đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy tính bảng hiệu Sam sung, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính, 01 màn hình máy tính, 01 máy tính tiền, 01 bóp da, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy phép lái xe và 01 bảo hiểm mang tên Nguyễn Thị H và số tiền 1.400.000 đồng, kết luận định giá tổng giá trị tài sản, tiền mặt bị mất trộm là 8.300.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật”.

[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bằng hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang lo lắng cho người bị hại, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và tạo ra một dư luận không tốt trong nhân dân. Bản thân các bị cáo nhận thức rất rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi cho bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trái pháp luật do mình gây ra.

[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét thêm về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để có hình phạt tương xứng.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra bị cáo Lưu Nhật H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Với các tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng và có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ cho thấy bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng:

[7.1] 01 máy tính bảng hiệu Sam sung tab, SM: P585Y, 01 laptop hiệu Asus, 01 CPU máy tính hiệu Dell màu đen, 01 màn hình máy vi tính Eagle, 01 máy tính tiền hiệu Ocha màu đen đã qua sử dụng, 01 bóp da, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên Phan Duy H, 01 giấy đăng ký xe biển số: 59D1 – 222.04 mang tên Nguyễn Thị V, 01 giấy đăng ký xe biển số 37E1 – 229.88 mang tên Nguyễn Thị H, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị H, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng không xem xét.

[7.2] 01 nón bảo hiểm màu đỏ có dán tem CTY TNHH - TM - SX G là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7.3] 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 - 5729, số khung NJ110 - 200084589, số máy 1P50FMG - 3 - 10209320. Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu nên giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để truy tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày thông báo, nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì trả lại xe cho họ. Sau 06 tháng kể từ ngày thông báo mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

[8] Về dân sự: Bị hại bà Nguyễn Thị H yêu cầu bị cáo Lưu Nhật H bồi thường số tiền 1.400.000 đồng bị mất. Bị cáo Lưu Nhật H đồng ý bồi thường cho bị hại nhưng chưa bồi thường. Do đó, yêu cầu này là có cơ sở nên Hội đồng chấp nhận. Buộc bị cáo Lưu Nhật H bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 1.400.000 đồng.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lưu Nhật H phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu bồi thường của bị hại bà Nguyễn Thị H được chấp nhận, bị cáo Lưu Nhật H phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290, khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lưu Nhật H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lưu Nhật H 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2021.

2. Về dân sự:

Căn cứ Điều 584, 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Lưu Nhật H bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị H đối với khoản tiền nêu trên cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu đỏ có dán tem CTY TNHH - TM - SX G.

- Giao 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số: 90F2 - 5729, số khung NJ110 - 200084589, số máy 1P50FMG - 3 - 10209320 cho Chi cục Thi hành dân sự huyện Hóc Môn thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để truy tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày thông báo, nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì trả lại xe cho họ. Sau 06 tháng kể từ ngày thông báo mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

(Tang vật tạm giữ được thể hiện tại Quyết định chuyển vật chứng số 29/QĐ-VKS-HS ngày 26/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/01/2022).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lưu Nhật H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo, bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về