Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2021/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H , sinh ngày 23/02/2000, tại Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu Tân Quang, xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không: nhân thân: Tại Bản án số 40/2016/HSST ngày 31/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Minh H bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng, án phí 200.000đ. Ngày 23/02/2018, H chấp hành xong; ngày 11/02/2017, H nộp án phí. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2021 đến nay (có mặt) Bị hại: Chị Vũ Thị Thu H1 , sinh năm 1980; địa chỉ: Ngõ x, T, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/01/2021, Nguyễn Minh H ở khu 3, xã Giáp Lai, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đi từ nhà xuống thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm việc làm. Do chưa thuê được phòng trọ nên H đến ở nhờ phòng trọ của anh Hà Tiến T , sinh năm: 1999 ở cùng quê với H đang ở tại Ngõ 2, đường Tô Hiệu thuộc tổ dân phố Tô Hiệu, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến khoảng 07 giờ 45 phút ngày 27/01/2021, H ngủ dậy tại phòng trọ của anh Thành, lúc này anh T đã đi làm nên chỉ có H ở nhà. H quan sát thấy cửa phòng của chị Vũ Thị Thu H1 cùng dãy với phòng trọ của anh T không khoá cửa nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đi đến phòng trọ của chị H và đi vào trong xem có tài sản gì có giá trị để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, H quan sát thấy dưới sàn nhà trong phòng trọ của chị H có 01 máy tính xách tay (laptop), nhãn hiệu Dell màu đen bạc để gấp cùng 01 dây sạc quấn gọn để ở trên máy. H dùng hai tay lấy chiếc laptop và dây sạc ôm vào người rồi đi ra ngoài khép cửa phòng chị H lại định tẩu thoát thì bị chị H phát hiện hô hoán, phối hợp cùng Tổ công tác của Công an thành phố Vĩnh Yên khống chế bắt giữ. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ: 01 chiếc laptop và dây sạc kèm theo máy là tài sản mà H khai nhận vừa trộm cắp được; 01 điện thoại Nokia; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh H .

Tại Kết luận định giá số 22/KL-UBND kết luận: 01 chiếc laptop nhãn hiệu Dell, màu đen – bạc, loại Latitude E6430, đời máy P25G đã cũ, đã qua sử dụng và 01 bộ dây sạc của chiếc laptop trên trị giá 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

Tại Cáo trạng số 58/CT-VKSTPVY ngày 30/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Minh H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng.

Bị hại chị Vũ Thị Mai Hương tại phiên tòa vắng mặt, quá trình điều tra khai nhận như nội dung Bản cáo trạng nêu trên. Chị H đã được Cơ quan điều tra trả lại 01 chiếc laptop, chị không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền gì (bút lục 33 - 41).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo Nguyễn Minh H giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam; áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả cho chị Vũ Thị Mai Hương 01 chiếc laptop nhãn hiệu Dell, màu đen – bạc, loại Latitude E6430, đời máy P25G đã cũ, đã qua sử dụng; trả lại cho Nguyễn Minh H 01 điện thoại Nokia; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh H nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Minh H không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 07h45 ngày 27/01/2021, tại khu nhà trọ thuộc ngõ 2, đường Tô Hiệu, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, Nguyễn Minh H đã lợi dụng sơ hở trộm cắp 01 chiếc laptop màu đen xám cùng 01 bộ dây sạc kèm theo máy của chị Vũ Thị Thu H1 thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Trị giá tài sản H trộm cắp theo kết luận định giá là 4.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Nội dung điều luật quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an, an toàn xã hội. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 3 năm nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Bị cáo H không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt. Bị cáo là người có nhân thân xấu nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc laptop nhãn hiệu Dell, màu đen – bạc, loại Latitude E6430, đời máy P25G đã cũ, đã qua sử dụng. Ngày 12/3/2021, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên đã trả lại cho chị H chiếc máy tính trên. Chị H sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên về trách nhiệm dân sự không xem xét giải quyết; đối với 01 điện thoại Nokia, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh H . Qúa trình điều tra xác định chiếc điện thoại H dùng để liên lạc cá nhân, giấy chứng minh nhân dân là giấy tờ tùy thân của H không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho H tài sản và giấy tờ trên nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 10 (mười tháng) tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/01/2021).

Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Minh H 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh H , 01 điện thoại Nokia nhưng cần tạm giữ chiếc điện thoại để đảm bảo việc thi hành án (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2021/HS-ST

Số hiệu:55/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về