Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 16/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2023/TLST-HS ngày 21/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2023/QĐXXST-HS ngày 06/01/2023đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân H, sinh ngày 18/3/2005; nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh;giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979; gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ hai; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

- Nhân thân: Ngày 09/01/2023 bị Công an huyện Tiên Du ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi “Trộm cắp tài sản” - Bị cáo bị áp dụng “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 21/10/2022 đến ngày 09/01/2023 bị Công an huyện Tiên Du bắt, tạm giam về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Tiên Du. Có mặt.

* Người giám hộ: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979 (Mẹ đẻ của H); HKTT: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo H (do Tòa chỉ định): Bà Nguyễn Thị C – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

* Bị hại:Ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1962;HKTT: thôn C, xã Ti, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979; HKTT: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 0h00’ngày 25/9/2022, do cần tiền tiêu cá nhân nên Nguyễn Xuân H, sinh ngày 18/3/2005 đi bộ từ nhà ở thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh ra QL 38 hướng về thôn Chi Trung, xã Tân Chi mục đích xem nhà ai để tài sản sơ hở sẽ đột nhập trộm cắp. Khi đến địa phận thôn Chi Trung cách đường QL 38 khoảng 100m, H phát hiện bên phải hướng đi của H gia đình ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1962 có dựng chiếc xe mô tô BKS:99C1-056.xx ở ngoài sân. H quan sát thấy không có ai, tường rào nhà ông Đ thấp nên H đã trèo qua lối này để vào trong sân. Khi vào trong sân, H tiến gần đến chiếc xe kiểm tra thấy xe có khóa cổ, dựng chân chống phụ. H quay lại kiểm tra cổng thì thấy cổng nhà ông Đ khóa bằng dây H không giằng phá được. Lúc này, H đi sang sân nhà chị D Thị Thoa, sinh năm 1997 (con dâu ông Đ) do sân nhà chị T và nhà ông Đ sử dụng chung sân ngăn cách tường rào có lối đi, H kiểm tra cổng nhà chị T không khóa nên H đã mở cổng nhà chị T rồi quay lại vị trí chiếc xe gạt chân chống phụ dắt xe dê dần đi theo lối nhà chị T ra ngoài đường. Khi dắt được chiếc xe mô tô trên ra ngoài đường, H rẽ phải đi được khoảng 70m đến ngã ba thì dừng lại và dùng chân đạp vào tay lái làm gãy khóa cổ chiếc xe mô tô trên sau đó H tiếp tục dắt xe đi theo hướng QL 38 mới. Khi đến gần QL 38 mới H dừng lại và dùng tô vít mang theo từ trước cất trong túi quần tháo bỏ yếm, giá phía trước xe vứt xuống ruộng rau muống gần đó rồi H tiếp tục phá ổ khóa điện và đạp nổ xe đi về khu vực bãi đất dự án giãn dân thuộc thôn Tư Chi. Tại đây, H tháo biển số xe và vứt lại. Sau đó H sử dụng chiếc xe trộm cắp phục vụ nhu cầu đi lại cá nhân. Ngày 26/9/2022, Cơ quan điều tra triệu tập H lên làm việc. Tại cơ quan điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp chiếc xe mô tô trên.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, H chỉ vị trí vứt yếm xe, giá phía trước của xe và biển kiểm soát xe, Cơ quan điều tra đã thu hồi được những tài sản này.Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, H giao nộp 01 tô vít hai đầu màu đen dài 12,5cm có tay cầm bằng cao su dài 8,5m đường kính 2,5cm.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 96 ngày 10/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu bạc đen BKS: 99C1- 056.xx; số máy HC12E3029934; số khung 1207BY229860, dung tích xi lanh 97cm3. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 5.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-TD ngày 20/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo biết hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại ông Ngô Văn Đtrình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS: 99C1- 056.xx mà bị cáo H trộm cắp là tài sản mà ông mua và cho con trai của ông là anh Ngô Văn D đứng tên. Sau đó anh D có mua xe mới và đã cho ông chiếc xe mô tô trên, thời điểm H lấy tài sản thì chiếc xe mô tô đang để ở sân nhà ông và hiện ông đang là người quản lý và sử dụng. Đến nay ông đã được nhận lại toàn bộ các tài sản mà bị cáo H đã trộm cắp. Ngoài ra bà Nguyễn Thị L là mẹ bị cáo đã bồi thường chi phí sửa chữa xe là 4.000.000 đồng. Nay ông không có yêu cầu gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bà Nguyễn Thị L trình bày: Sau khi biết hành vi phạm tội của H, bà đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả chi phí sửa chữa xe cho bị hại với số tiền 4.000.000 đồng. Đối với số tiền này bà không có đề nghị gì, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội; sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

-Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

-Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 98; Điều 101; Điều 38 BLHS xử phạt: Nguyễn Xuân H từ 04 tháng tù đến 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc tô vít hai đầu, màu đen dài 12,5cm có tay cầm bằng cao su dài 8,5cm đường kính 2,5cm.

Người bào chữa cho bị cáo H trình bày: Nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được H các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i ,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo là người có nhân thân tốt, khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được H mức án thấp nhất mà VKS đã đề nghị.

Bị cáo nhất trí với quan điểm của người bào chữa, không có ý tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:Khoảng 00 giờ 25 phút ngày 25/9/2022, tại gia đình ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1962 ở thôn C, xã Ti, huyện T, tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Xuân H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu bạc đen BKS: 99C1- 056.xx trị giá 5.000.000 đồng của anh Ngô Văn D.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Tài sản mà bị cáo trộm cắp có giá trị 5.000.000 đồng, như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy cần xét xử nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

2. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy bị cáo được H các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy: Trong thời gian tại ngoại, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác, do vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong nhân dân. Tuy nhiên bị cáo khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cũng cần xem xét khi lượng hình.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, là người dưới 18 tuổi nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Ngô Văn Đđã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì đối với bị cáo, nên không xem xét giải quyết.

4. Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc tô vít hai đầu, màu đen dài 12,5cm có tay cầm bằng cao su dài 8,5cm đường kính 2,5cm, là dụng cụ thực hiện hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

5. Những vấn đề khác: Đối với các tài sản hợp pháp của anh Ngô Văn D bao gồm: 01 chiếc xe mô tô trên cùng 01 cặp yếm xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha, màu bạc đen; 01 biển kiểm soát 99C1-056.xx và 01 giá để hàng phía trước bằng kim loại màu trắng, ngày 01/11/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh D là phù hợp.

6. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

2.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 98; Điều 101; Điều 38 BLHS:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 04 (Bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3.Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

-Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc tô vít hai đầu, màu đen dài 12,5cm có tay cầm bằng cao su dài 8,5cm đường kính 2,5cm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 38 ngày 21/12/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du).

4.Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2023/HS-ST

Số hiệu:54/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về