Bản án về tội trộm cắp tài sản số 52/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2021/HSST, ngày 02 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1997.

HKTT và Nơi ở hiện nay: Phố T, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1965; Chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1980 Địa chỉ: Số 06/33 phố N, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. (Có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn L là nhân viên quán Karaoke H do chị Nguyễn Thị Thanh H làm chủ. Khoảng 14 giờ ngày 19/7/2020, trong lúc dọn dẹp L phát hiện tủ gỗ ở tầng 1 của quán không khóa, thấy sơ hở nên đã nảy sinh mục đích chiếm đoạt. L mở tủ kiểm tra thì thấy một chiếc ví da màu đỏ của chị Nguyễn Thị Thu H, bên trong có 20.523.000đ. L lấy toàn bộ số tiền trên bỏ vào túi quần và rời khỏi quán; Đồng thời L tắt điện thoại liên lạc, đón xe khách lên tỉnh Cao Bằng chơi. Sau khi trộm cắp được số tiền trên, L nhắn tin, gọi điện thoại thông báo cho người thân trong gia đình biết và nhờ gia đình trả lại số tiền đã trộm cắp cho chị H.

Trong thời gian sinh sống tại tỉnh Cao Bằng, L sử dụng toàn bộ số tiền trộm cắp được tiêu sài cá nhân hết. Sau đó L bỏ trốn sang nước Trung Quốc làm thuê. Quá trình điều tra, do không xác định được bị can đang ở đâu nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã bị can số 38/CSĐT ngày 12/11/2020 đối với Nguyễn Văn L. Khi được người thân trong gia đình thông báo và vận động, đến ngày 17/9/2021, Nguyễn Văn L đã về Việt Nam và đầu thú tại Công an tỉnh Cao Bằng.

Về dân sự: Gia đình Nguyễn Văn L đã trả cho chị Nguyễn Thị Thu H số tiền 20.523.000đ, chị H đã nhận đủ, không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L đã thành khẩn khai bào hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại cáo trạng số 12/CT-VKS, ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa truy tố Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về phần dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Lâm khai nhận: Khoảng 14giờ ngày 19/7/2020, tại quán Karaoke H; Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Văn L đã lén lút trộm cắp 20.523.000đ của chị Nguyễn Thị Thu H.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn Lphạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo cũng như giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự . Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bỏ trốn và bị truy nã, bị cáo đã ra đầu thú khai báo hành vi phạm tội của mình. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại toàn bộ số tiền trộm cắp để khắc phục hậu quả; Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng do trong quá trình điều tra, bị cáo bỏ trốn và đã bị truy nã nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/20218 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về phần dân sự: Tài sản bị cáo trộm cắp đã được trả lại cho chủ sở hữu. bị hại đã nhận lại tài sản và không có thắc mắc, yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; Điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Lâm 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành bản án.

Về phần bồi thường dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14.

Bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về