Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2021/TLST - HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 222/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyn Như T, sinh ngày 07 tháng 7 năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; hộ khẩu thường trú: X Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 21, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 03/12; con ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1970) và bà Trần Thị V (sinh năm 1970); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 05/11/2020 và có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Bà Phạm Thị Kim N; địa chỉ:  Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Văn S; địa chỉ: Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Đức N; địa chỉ: phường Hiệp Bình P, quận Thủ Đ, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

3. Ông Võ Hoàng D; địa chỉ: quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 05 tháng 11 năm 2020, tại khu vực chuồng bò sát của Thảo Cầm Viên Sài Gòn, số X Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Như T phát hiện chị Phạm Thị Kim N để 01 điện thoại di động Iphone X (có ốp lưng màu xanh và kẹp 01 Ringít Malaysia) ở túi quần sau bên phải nên nảy sinh ý định chiếm đoạt, Thiên áp sát từ phía sau, dùng tay phải lấy điện thoại di động từ trong túi quần của chị N rồi bỏ đi. Lúc này, chị N quay lại, phát hiện T đang cầm điện thoại di động của mình nên tri hô thì T bỏ chạy. Các anh Phạm Văn S, Nguyễn Đức N, Võ Hoàng D nghe chị N tri hô nên đã truy đuổi. Do thấy bị truy đuổi, T để điện thoại di động của chị N xuống đất rồi tiếp tục bỏ chạy, đến khu vực chuồng chim hồng hạc thì bị các anh S, D và chị N bắt giữ, thu hồi vật chứng, đưa T về Công an phường Bến Nghé, Quận 1 tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 xử lý theo thẩm quyền.

Theo Kết luận định giá tài sản 314/KL-HĐĐGTS ngày 28/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1 thì:

01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, dung lượng 64GB trị giá 9.125.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại màu xanh trị giá 50.000 đồng.

Theo Công văn số 3337/HCM-QLNHV ngày 17/11/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh thông báo 01 Ringít Malaysia có tỷ giá 5.569,16 đồng.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Nguyễn Như T thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Vt chứng:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone X có 01 (một) ốp lưng màu xanh kẹp 01 Ringgít Malaysia; Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Phạm Thị Kim N.

- Thu giữ của Nguyễn Như T: 01 (một) áo thun màu xanh; 01 (một) quần màu xanh.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 259-20/PNK ngày 07/12/2020) Hiện tất cả vật chứng đang nhập kho Công an Quận 1.

Về trách nhiệm dân sự: Các tài sản bị chiếm đoạt đã được trả lại cho Bị hại Phạm Thị Kim N; Bị hại không có yêu cầu về phần bồi thường dân sự.

Ti bản cáo trạng số 23/CT-VKSQ1 ngày 19 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Như T về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Nguyễn Như T từ 6 (sáu) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thống nhất với nội dung cáo trạng, luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an Quận 1, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra phù hợp với nhau, với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: vào khoảng 13 giờ ngày 05 tháng 11 năm 2020, tại khu vực chuồng bò sát của Thảo Cầm Viên Sài Gòn, số Z Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Như T đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone X; 01 ốp lưng màu xanh; 01 đồng Ringgít Malaysia của bị hại. Theo Kết luận định giá tài sản 314/KL-HĐĐGTS ngày 28/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1, 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, dung lượng 64GB trị giá 9.125.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại màu xanh trị giá 50.000 đồng. Theo Công văn số 3337/HCM- QLNHV ngày 17/11/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh thông báo 01 Ringít Malaysia có tỷ giá 5.569,16 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 9.180.569,16 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản ” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh truy tố bị cáo theo điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân nên vẫn cố tình thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã thu hồi, trả lại cho bị hại, bị cáo có nhân thân tốt nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các tài sản bị chiếm đoạt đã được trả lại cho Bị hại Phạm Thị Kim N; Bị hại không có yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự.

[9] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo thun màu xanh; 01 (một) quần màu xanh thu giữ của Nguyễn Như T.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 259-20/PNK ngày 07/12/2020) [10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Như T 09 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 05 tháng 11 năm 2020;

Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, - Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo thun màu xanh; 01 (một) quần màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Như T.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 259-20/PNK ngày 07/12/2020)

- Căn cứ vào: Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo Nguyễn Như T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Căn cứ Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Bị cáo Nguyễn Như T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại Phạm Thị Kim N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2021/HS-ST

Số hiệu:51/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về