Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên Lê Văn X, sinh năm 1987 tại T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký HKTT: Thôn Q, xã V, huyện N, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 05/12; chức vụ, đảng phái: Không; con ông Lê Văn T, sinh năm 1955 (đã chết) và bà Đoàn Thị G, sinh năm 1958; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình; có vợ là Đặng Thị Như Q, sinh năm 1985 chưa có con; tiền án: Ngày 27/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 464/2018/HS-ST; tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 28/9/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

Bị hại :

1. Chị Võ Thị Hải Y , sinh năm 1992. Địa chỉ: khu phố M, phường A , thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.(có mặt)

2. Cháu Trần Minh P, sinh năm 2004. (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Trần Thành Đ, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1976. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: tổ B, khu phố N, phường A, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn X là đối tượng không có nghề nghiệp, nghiện ma túy, đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản. Để có tiền tiêu xài, X đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác cụ thể như sau:

Lần 01:

Khoảng 11 giờ 30 ngày 16/9/2019, Nguyễn Văn L, sinh năm 1988, ở tại khu phố H, phường L, thành phố Biên Hòa điều khiển xe mô tô biển số 60F3-211.02 chở theo Lê Văn X đi đến nhà trọ khu phố M, phường A, thành phố Biên Hòa, thấy nhà trọ không có ai nên L đứng ở bên ngoài cảnh giới còn X đi vào trong nhà trọ và đã dùng 01 cây sắt mang theo dài khoảng 30cm hai đầu có móc dùng để bẻ sắt cạy phá cửa phòng của chị Võ Thị Hải Y, sinh năm 1992, ở ấp T, xã G, Huyện M, tỉnh S và vào trong lục tìm thì thấy có một cái túi xách trong đó có số tiền 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) nên X lấy số tiền trên và vứt túi xách lại và đi ra ngoài tẩu thoát, số tiền trộm cắp được X về chia cho L 3.000.000 (ba triệu đồng) còn lại X 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) X đã sử dụng mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, chị Y đã xem lại Camera an ninh tại phòng trọ thì thấy ghi lại hình ảnh X đột nhập vào nhà chị Y để trộm cắp nên đã trình báo sự việc lên Công an phường A lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý theo quy định.

Vật chứng vụ án:

- Số tiền 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng), sau khi trộm cắp X và L đã tiêu xài cá nhân hết nên Cơ quan Cảnhsát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu hồi được.

- 01 cây sắt mang theo dài khoảng 30cm hai đầu có móc dùng để bẻ sắt cạy phá cửa, sau khi sử dụng X đã vứt bỏ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu hồi được.

- 01 xe mô tô biển số 60F3-211.02, X khai do L đang quản lý, sử dụng, hiện nay L làm gì ở đâu không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa chưa làm việc được.

- 01 USB có chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh Lê Văn X đột nhập vào phòng chị Y trộm cắp tài sản.

Về dân sự: Chị Võ Thị Hải Y yêu cầu X bồi thường 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng).

Lần 02:

Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 28 tháng 9 năm 2019, X điều khiển xe mô tô biển số 61R3-X đi đến nhà anh Trần Thành Đ, sinh năm 1971, ở tại tổ B, khu phố N, phường A, thành phố Biên Hòa thì thấy trong nhà anh Đ có đám tiệc, trước nhà có dựng một xe mô tô nhãn hiệu Vision, trên yên xe mô tô có để một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 181 của cháu Trần Minh P, sinh năm 2004 nên X đã lén lút đi đến lấy trộm chiếc điện thoại trên thì bị cháu P trong nhà đi ra cùng với anh Nguyễn Hiền V, sinh năm 1990, ở tại khu phố N, phường A, thành phố Biên Hòa phát hiện bắt giữ quả tang X cùng tang vật giao Công an phường An Bình lập hồ sơ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý theo quy định.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1814, Imei 1: 866815046377838, Imei 2: 866815046377820, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho cháu Trần Minh P.

- Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đang tạm giữ 01 xe mô tô biển số 61R3-X.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 448/TCKH-HĐĐG ngày 03/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1814, Imei 1: 866815046377838, Imei 2: 866815046377820 có giá trị là 2.552.000 đồng (Hai triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng).

Về dân sự: Cháu Trần Minh P đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại Cáo trạng số 47 /CT-VKSBH ngày 13/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Văn X về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, phạm tội 02 lần và với người dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm h, g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và các điểm h, g, i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn X với mức án từ 18 đến 20 tháng tù.

- Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là chị Võ Thị Hải Y số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) mà bị cáo đã trộm cắp, chiếm đoạt vào ngày 16/9/2019.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng của vụ án:

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1814, Imei 1: 866815046377838, Imei 2: 866815046377820 có giá trị là 2.552.000 đồng (hai triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng) mà bị cáo trộm cắp của cháu Trần Minh P vào ngày 28/9/2019. Quá trình điều tra, truy tố đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu hồi trả lại cho người bị hại là cháu Trần Minh P là phù hợp.

+ 01 chiếc xe mô tô biển số 61R3-X mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội ngày 28/9/2019, X khai mượn của H (không rõ họ, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, xác minh xử lý sau.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không phát biểu tranh luận và không bào chữa.

Trong phần phát biểu lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Để có tiền tiêu xài vào mục đích cá nhân vào các ngày 16/9/2019 và ngày 28/9/2019, X đã có hành vi lén lút trộm cắp của chị Võ Thị Hải Y số tiền 7.500.000 đồng và trộm cắp của cháu Trần Minh P 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 181 có giá trị định giá 2.552.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo 02 thực hiện hành vi trộm cắp là 10.052.000 đồng (Mười triệu không trăm năm mươi hai nghìn đồng) thì bị phát hiện xử lý theo quy định.

Bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 464/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa nay lại tái phạm và phạm tội đối với người dưới 16 tuổi.

[3] Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập. Nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm, phạm tội 02 lần và với người dưới 16 tuổi được quy định tại các điểm h, g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa đã viện dẫn và truy tố.

Quá trình điều tra, X khai có Nguyễn Văn L, sinh năm 1988 trú tại tổ H, khu phố H, phường L, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cùng tham gia đi trộm cắp tài sản vào ngày 16/9/2019 nhưng hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa chưa làm việc được với L nên đang tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình cho quần chúng nhân dân nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét: Quá trình Điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự) giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa người bị hại là chị Võ Thị Hải Y yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) mà bị cáo đã trộm cắp vào ngày 16/9/2019.

Xét yêu cầu về bồi thường thiệt hại của người bị hại là hoàn toàn chính đáng và đúng với qui định của pháp luật nên chấp nhận. Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là chị Võ Thị Hải Y số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng).

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1814, Imei 1: 866815046377838, Imei 2: 866815046377820 có giá trị là 2.552.000 đồng (hai triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng) mà bị cáo trộm cắp của cháu Trần Minh P vào ngày 28/9/2019. Quá trình điều tra, truy tố đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu hồi trả lại cho cháu Trần Minh P và cháu P cũng như người đại diện hợp pháp của cháu P không có yêu cầu bồi thường nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết .

[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1814, Imei 1: 866815046377838, Imei 2: 866815046377820 có giá trị là 2.552.000 đồng (hai triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng) mà bị cáo trộm cắp của cháu Trần Minh P vào ngày 28/9/2019. Quá trình điều tra, truy tố đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu hồi trả lại cho người bị hại là cháu Trần Minh P là phù hợp.

- 01 chiếc xe mô tô biển số 61R3-X mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội ngày 28/9/2019, X khai mượn của H (không rõ họ, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, xác minh xử lý sau là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ và 375.000đ (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn X phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và các điểm h, g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Lê Văn X 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/09/2019.

- Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 586, 590 và Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Lê Văn X phải bồi thường cho người bị hại là chị Võ Thị Hải Y số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng).

Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

- Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 375.000đ (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Bị cáo, người bị hại Y có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại P và người đại diện hợp pháp vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2020/HS-ST

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về