Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn K, sinh ngày 24 tháng 4 năm 2002, tại Cần Thơ. Nơi cư trú: Ấp Phú N, xã Nhơn N, huyện Phong Đ, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Út C, sinh năm 1981. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo Phạm Văn K bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/12/2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Long Khánh. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Thạch Thị Ngọc D, sinh năm 2002. Địa chỉ: 364 HTH, khu phố 5, phường A, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 12/11/2022, một người thanh niên tên Bi (không rõ nhân thân, lai lịch) có gọi điện thoại rủ Phạm Văn K đến thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai nên Khánh đồng ý. Sau đó, Khánh bắt xe taxi từ cổng 11 thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa về công viên Suối Tre thuộc khu phố Suối Tre, phường Suối Tre, thành phố Long Khánh để gặp Bi như đã hẹn. Tại đây, Bi rủ K đi trộm cắp tài sản, khi trộm được sẽ chia cho K số tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, nên K đồng ý. Bi điều khiển xe môtô hiệu Suzuki - Raider, màu xanh, BKS: 67K1-xxx chở theo K ngồi sau, chạy trên các tuyến đường thuộc thành phố Long Khánh tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Bi và K thấy trước cửa phòng trọ chị Thạch Thị Ngọc D, sinh năm 2002, ngụ tại khu phố 5, phường A, thành phố K có dựng 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Vario, màu hồng, biển số 84E1-xxx mà không có người trông coi, nên K và Bi bàn bạc trộm cắp tài sản. K đứng ngoài cổng cảnh giới, còn Bi đi bộ đến trước cửa phòng trọ chị Diệu bẻ khóa xe. Khi trộm được tài sản, Khánh điều khiển xe môtô BKS: 67K1-xxx còn Bi điều khiển xe môtô BKS: 84E1-xxx tẩu thoát về hướng phường Suối Tre, thành phố Long Khánh. Khi đang dừng xe tại công viên Suối Tre thì thấy lực lượng Công an đi tuần tra nên Bi và K hoảng loạn bỏ lại cả 02 xe môtô trên rồi bỏ chạy vào lô cao su tẩu thoát.

Ngày 09/12/2022 chị Thạch Thị Ngọc D đến Cơ quan Công an thành phố Long Khánh trình báo sự việc mất trộm tài sản. Qua xác minh Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành mời Khánh về trụ sở làm việc, tại đây K đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 112/HĐĐGTTTHS ngày 19 tháng 12 năm 2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Khánh kết luận: 01 chiếc xe môtô, màu hồng, BKS: 84E1-xxx có giá trị là 38.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ, xử lý: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh thu giữ: 01 xe môtô hiệu Honda Vario, màu hồng, BKS: 84E1 – xxx, đã qua sử dụng, qua điều tra đã xác định được đây là tài sản hợp pháp của chị Thạch Thị Ngọc D nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã trả lại cho chị D.

01 xe môtô hiệu Suzuki Raider, màu xanh, BKS: 67K1-xxx, đã qua sử dụng, qua điều tra đã xác định được đây là tài sản của anh Đặng Quốc H, sinh năm 2003, ngụ tại khu phố 12, phường An Bình, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, bị mất trộm ngày 29/10/2022 tại khu phố 12, phường An Bình, thành phố Biên Hòa nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh tiến hành bàn giao xe mô tô này cho Công an thành phố Biên Hòa để giải quyết theo thẩm quyền.

01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu trắng, đã qua sử dụng là tài sản của chị Nguyễn Ngọc K, sinh năm 2002, hộ khẩu thường trú tại ấp 12, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau cho K mượn để liên lạc, chị Kỷ không biết việc K sử dụng điện thoại trên để liên lạc phục vụ việc trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã trả lại điện thoại trên cho chị Kỷ.

04 đoạn clip thu gữi từ Camera phòng trọ ghi hình 02 đối tượng trộm cắp được trích xuất trong 01 đĩa VCD lưu kèm hồ sơ.

Về dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không đưa ra giải quyết.

Tại bản cáo trạng số: 49/CT-VKSLK ngày 21/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố, do quen nhau trên mạng xã hội nên bị cáo không biết rõ họ tên, nơi cư trú của đối tượng tên Bi.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng số 49/CT-VKSLK ngày 21/3/2023 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Phạm Văn K mức án từ 08 tháng đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Đã giải quyết xong.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Đối với đối tượng tên Bi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã ra Quyết định truy tìm, khi nào xác minh làm rõ được sẽ xử lý sau.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo Khánh nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo đã rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với cha và hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các đoạn video đã thu thập được và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Do lười lao động nhưng lại muốn có tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 13 giờ ngày 12/11/2022, Phạm Văn K và 01 đối tượng tên “Bi” (hiện chưa rõ lai lịch) đến phòng trọ của chị Thạch Thị Ngọc D tại khu phố 5, phường A, thành phố K lén lút trộm cắp 01 xe môtô hiệu Honda Vario, màu hồng, BKS: 84E1-xxx có giá trị là 38.000.000 đồng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như luận tội của vị Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Đối với đối tượng tên “Bi” Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã ra Quyết định truy tìm, khi nào xác minh làm rõ được sẽ xử lý sau.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo Phạm Văn K không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Đánh gía tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ham chơi, lười lao động, muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, chiếm đoạt tài sản của người khác, do vậy cần xử lý nghiêm.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người biết tuân thủ pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo là không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 xe môtô hiệu Honda Vario, màu hồng, BKS:

84E1 – xxx, là tài sản của chị Thạch Thị Ngọc D; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu trắng, đã qua sử dụng là tài sản của chị Nguyễn Ngọc K nên việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh trả lại các tài sản trên cho các chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp với quy định pháp luật.

Đối với 01 xe môtô hiệu Suzuki Raider, màu xanh, BKS: 67K1-xxx, đã qua sử dụng, qua điều tra xác định được đây là tài sản của anh Đặng Quốc Hùng, sinh năm 2003, ngụ tại khu phố 12, phường An Bình, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, bị mất trộm ngày 29/10/2022, tại khu phố 12, phường An Bình, thành phố Biên Hòa nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã có văn bản số 351/CSĐT-ĐCSHS ngày 02/3/2023 gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để phối hợp bàn giao vật chứng là phù hợp với quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

9 Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố, hình phạt là có căn cứ và phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2022.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về