Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện dân huyện T, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cù A T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh ngày: 20/9/2000;

Nơi ĐKHKTT: Xã BC, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Tạm trú: Khu 3, xã BY, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 3/12;

Bố đẻ: Cù A T1, sinh năm 1977. Mẹ đẻ: Ma Thị H , sinh năm 1978.

Anh chị em ruột: Không có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Cù A T bị tạm giữ từ ngày 09/11/2021.(Có mặt).

2. Họ và tên: Đỗ Quốc H;Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh ngày: 05/8/2000;

Sinh trú quán: Khu 1, xã BY, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12;

Bố đẻ: Đỗ Quốc H, sinh năm 1978. Mẹ đẻ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1982.

Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Có 01 tiền sự: Ngày 20/7/2020, bị Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau.

Bị cáo Đỗ Quốc H không bị tạm giữ tạm giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện ở tại khu 1, xã BY, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

mặt).

Người bị hại: Anh Vũ Mạnh L, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Khu Đồn, xã H Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.(Vắng Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Đỗ Quốc H, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Khu 1, xã BY, huyện T, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Cù A T: Bà Hà Thị Lan H – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/7/2021, Công an huyện T nhận được báo cáo của Công an xã BY cùng đơn trình báo của anh Vũ Mạnh L – Sinh năm 1986, ở khu Đồn, xã H Cần, huyện Thanh Sơn – hiện đang là đội trưởng đội thi công thuộc Công ty HTC, dự án W Thanh Thuỷ với nội dung: Đêm ngày 24/7/2021, sau khi đơn vị thi công buổi tối có cất 01 máy hàn, 01 máy đục bê tông trong tủ đựng đồ có khoá ngoài bảo vệ đặt trước cửa công văn phòng BCH HTC. Đến 6 giờ sáng ngày 25/7/2021, khi đơn vị lấy đồ đi làm thì phát hiện tủ đựng đồ bị cắt khoá và lấy mất các tài sản trên. Trị giá tài sản bị mất khoảng 4.600.000đ.

Sau khi tiếp nhận hồ sơ tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành khám hiện trường, lấy lời khai của bị hại, của những người liên quan để làm rõ vụ việc. Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Công an đã thu giữ 01 kìm cộng lực bằng kim loại, nhãn hiệu MEI MFA và 01 ổ khoá màu vàng, nhãn hiệu “Việt tiệp”, khoá trong trạng thái đóng, móc khoá bị cắt thành hai phần. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Thuỷ đã xác minh làm rõ đối tượng trộm cắp tài sản trên là Cù A T – Sinh năm 2000, HKTT ở Xã BC, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, tạm trú ở Khu 3 xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thuỷ và Đỗ Quốc H – Sinh năm 2000, ở khu 1 xã BY, huyện Thanh Thuỷ. Tại Cơ quan điều tra, Tới và H khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Cù A T là người không có công việc ổn định, đang làm công nhân làm thuê và thuê trọ tại khu 3, xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thuỷ (hiện nay đang tạm trú tại khu 3, xã BY, huyện T). Quá trình sống tại huyện T, Tới có quen biết với Đỗ Quốc H, ở khu 1 xã BY. Khoảng 3 giờ 30 phút ngày 25/7/2021, H đi xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE không gắn BKS đến nhà trọ của Tới chơi. Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên Tới nảy sinh ý định đến công trường thi công khu phố thương mại dịch vụ tổng hợp và công viên khoáng nóng W thuộc khu 1, xã BY, huyện Thanh Thuỷ để trộm cắp tài sản. Tới bảo H dùng xe mô tô chở Tới đi. Trên đường đi, Tới rủ H trộm cắp tài sản cùng mình thì H đồng ý. H và Tới thống nhất với nhau H sẽ ở ngoài cảnh giới cho Tới vào công trường trộm cắp tài sản, khi nào Tới trộm được tài sản mang ra thì H sẽ dùng xe máy của mình chở Tới đem tài sản đi bán lấy tiền chia nhau. Sau đó, H chở Tới đến cổng vào công trường W, như đã bàn bạc từ trước H ở ngoài đường chờ và cảnh giới cho Tới, còn Tới do trước đó đã chuẩn bị trước nên mặc áo và đội mũ công nhân làm trong công trường để lừa bảo vệ vào công trường trộm cắp tài sản. Tới đi vào công trường qua chốt bảo vệ gặp anh Hoàng Minh C – sinh năm 1974, ở khu 1, xã BY đang làm bảo vệ ở cổng vào công trường. Anh C hỏi Tới đi đâu, Tới trả lời vào công trường lấy máy chuyển sang Vĩnh Phúc làm, rồi Tới đứng ở chốt cùng anh C. Thấy anh C không nói gì nên Tới đi vào trong công trường tìm tài sản để trộm cắp. Do trước đó Tới đã từng làm thuê trong công trường nên Tới biết rõ đường đi trong công trường. Khi Tới đi đến nhà kho trong công trường khu vực đang xây bể chứa nước thải, phía sau khu toà nhà đang thi công, Tới phát hiện tại hiên phía trước nhà kho có một hòm tôn có khoá, phía trên hòm tôn đ ể 01 chiếc kìm cắt sắt cộng lực. Tới sử dụng kìm trên nóc tủ tôn để cắt khoá mở tủ, sau đó Tới vứt khoá về phía khu ươm cây trong công trường cách vị trí Tới trộm cắp khoảng 10m, rồi Tới mở tủ hòm tôn. Khi mở hòm tôn ra, Tới thấy trong hòm tôn có để nhiều máy móc và vật dụng nên Tới lấy trộm một máy hàn và một máy đục đựng trong hộp nhựa màu xanh. Lấy được tài sản, Tới xách hai chiếc máy đi quay lại đường cũ để tẩu thoát. Khi Tới xách máy đục và máy hàn đi đến khu vực giữa các toà nhà đang xây thì gặp anh Phùng Anh T – Sinh năm 1970, ở khu Phố, thị trấn Thanh Thuỷ là bảo vệ công trường đang đi tuần phát hiện Tới đang xách đồ. Anh T chụp ảnh lại và yêu cầu Tới để tài sản lại vị trí ban đầu, gọi điện thoại báo cho anh C đến, đồng thời gọi báo cáo cho Công an xã BY biết sự việc. Lúc này, Tới trốn ra đường gặp H và bảo H việc trộm cắp tài sản bị bảo vệ bắt được, rồi H đưa Tới đến phòng trọ của chị Hoàng Thị Quỳnh – Sinh năm 1990, ở khu 1, xã BY (do trước đó Tới đã thuê trọ ở tầng 1 nhà chị Quỳnh, sau đó Tới chuyển đi nơi khác). Khi đến nơi, Tới vào ngủ tại phòng trọ, còn H đi về nhà của mình. Sau đó, Tới, H được triệu tập đến cơ quan Công an để làm việc và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra, Công an xã BY đã tạm giữ: 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0840 do Trung Quốc sản xuất, công suất 1.100W đã qua sử dụng được đựng trong 1 hộp nhựa màu xanh; 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu JASIC Weldcom, ARC 200 (R04) sản xuất tại Trung Quốc, kích thước 400 x 150 x 260 (mm) đã qua sử dụng. Ngày 25/7/2021, Đỗ Quốc H đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Công an 01 xe mô tô không biển kiểm soát, nhãn hiệu HONDA WAVE, màu đỏ, đen, bạc và biển kiểm soát 19K8 – xxxx. Đối với áo và mũ Cù A T mặc để giả làm công nhân làm trong công trường, Tới đã vứt bỏ khi H chở Tới về nhưng Tới không nhớ vứt ở vị trí nào nên Cơ quan Công an không thu giữ được. Ngày 10/8/2021, ông Đỗ Quốc H – Sinh năm 1978, ở Khu 1 xã BY (bố đẻ của H) đã giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Thuỷ 01 đăng ký cho xe mô tô BKS 19K8 – xxxx mang tên Hà Quang H, địa chỉ khu 7, xã L, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.

Ngày 27/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Thuỷ có yêu cầu định giá tài sản gửi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Thanh Thuỷ đề nghị định giá 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu Jasic Weldcom và 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0840. Tại kết luận định giá tài sản số 36 ngày 29/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Thanh Thuỷ kết luận: Giá trị tài sản thiệt hại trong vụ trộm cắp tài sản 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0840 sản xuất tại trung quốc công xuất 1.100W, có trọng lượng 6,7 kg đã qua sử dụng được để trong 01 hộp nhựa màu xanh dạng vali mang nhãn hiệu Hndai cần định giá là 1.400.000 đồng; giá trị tài sản thiệt hại trong vụ trộm cắp tài sản của 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu Jasic Weldcom ARC 200 (R04), xuất xứ từ Trung Quốc có trọng lượng 8.0kg, kích thước máy 400 x 150 x 260 (mm), hai đầu nối nhanh 10 x 25, sử dụng hàn que 2.0 – 4.0 mm, phạm vi điều chỉnh dòng (A) 20 – 200 A đã qua sử dụng cần định giá là 700.000 đồng.

Tổng giá trị định giá là 2.100.000đ.

Căn cứ hành vi phạm tội của Cù A T và Đỗ Quốc H ngày 25/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ đã khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Cù A T và Đỗ Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra, các bị can đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nên trên, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng vật chứng thu giữ được và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 49/CT- VKSTT ngày 08 tháng 10 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Cù A T và Đỗ Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên Tòa người bị hại đã nhận lại tài sản, không đề nghị các bị cáo bồi thường thiệt hại gì khác.

Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Cù A T.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đỗ Quốc H.

* Tuyên bố:

- Bị cáo Cù A T, bị cáo Đỗ Quốc H phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

* Xử phạt:

- Bị cáo Cù A T từ 06 đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 09/11/2021.

- Bị cáo Đỗ Quốc H 03 đến 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Cù A T và bị cáo Đỗ Quốc H.

* Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị hại anh Vũ Mạnh L:

+ 01 ổ khóa màu vàng, nhãn hiệu “Việt Tiệp” kích thước 0,073x0,05m, khóa trong trại thái đóng, móc khóa bị cắt thành hai phần, vết cắt tương đối sắc gọn.

+ 01 kìm cộng lực bằng kim loại nhãn hiệu MEI MFA đã bị gỉ sét, biến đổi màu sắc kim loại thành màu nâu đỏ, kìm dài 0,91 m, cán kìm là 02 ống kim loại dài 0,74 m, đường kính 0,03m, lưỡi kìm dài 0,17.

- Trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Quốc H:

+ 01 xe mô tô không biển kiểm soát, nhãn hiệu HONDA WAVE, màu đỏ, đen, bạc.

+ 01 biển kiểm soát 19K8-xxxx.

+ 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 001xxxx cho xe mô tô BKS 19K8-xxxx mang tên Hà Quang H, địa chỉ khu 7, xã L, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 máy đục bê tông và 01 máy hàn hồ quang cho anh Vũ Mạnh L ngày 05/08/2021 là hợp pháp.

* Về bồi thường dân sự: Do anh Linh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo Cù A T trình bày: Bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Bản cáo trạng số 49/CT-VKSTT ngày 08/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Cù A T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Nhất trí với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu và chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,ý kiến người bào chữa, lời khai của các bị cáo, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người bị hại vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người bị hại. Xét thấy người bị hại đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa các bị cáo Cù A T và Đỗ Quốc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà hôm nay đều thống nhất với nhau, phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ. Như vậy khẳng định: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/7/2021, tại Công trường thi công khu phố thương mại dịch vụ tổng hợp và công viên khoáng nóng W thuộc khu 1, xã BY, huyện T, tỉnh Phú Thọ Cù A T và Đỗ Quốc H đã có hành vi trộm cắp 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0804 và 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu JASIC Weldcom, ARC 200(R04) đã qua sử dụng của anh Vũ Mạnh L, là đội trưởng đội thi công công trường. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.100.000 đồng. Hành vi của Tới và H phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi nêu trên của các bị cáo gây mất trật tự trị an xã hội, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo Cù A T và Đỗ Quốc H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Ngày 29/10/2021 Tòa án nhân dân huyện T đã đưa vụ án ra xét xử nhưng bị cáo Tới đã bỏ trốn đến ngày 09/11/2021 bị cáo Tới bị bắt theo quyết địnhn truy nã của Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Trong vụ án này Cù A T giữ vai trò là người khởi xướng, chủ mưu đồng thời là người thực hành. Đỗ Quốc H đồng phạm với vai trò là người giúp sức, thực hiện nhiệm vụ cảnh giới cho Tới để cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Cù A T và Đỗ Quốc H là nguy hiểm cho xã hội, đã gây mất an ninh trong khu vực, tạo nên tâm lý hoang mang lo sợ trong khu dân cư và quần chúng nhân dân trong việc trông giữ, bảo vệ tài sản của mình. Với lỗi cố ý bị cáo Tới và bị cáo H đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại, các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo Tới và bị cáo H là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì không muốn làm lại muốn có tiền chi tiêu, nên các bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác dẫn đến vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần đưa các bị cáo ra xét xử và có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2.2].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo HĐXX thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đỗ Quốc H Có 01 tiền sự: Ngày 20/7/2020, bị Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa hôm nay bị cáo Cù A T và bị cáo Đỗ Quốc H phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, bị cáo Đỗ Quốc H có vai trò giúp sức trong vụ án, việc giúp sức này đóng góp không đáng kể, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội là không lớn. Hơn nữa bị cáo Đỗ Quốc H lại được áp dụng 2 tình tiết giảm nhẹ trách niệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Quốc H, để bị cáo H được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là hợp lý, cần chấp nhận.

[2.3] Trong vụ án này, đối với áo và mũ Cù A T mặc để giả làm công nhân trong công trường, quá trình điều tra các đối tượng không xác định được địa điểm đã vứt bỏ nên không có căn cứ để thu giữ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[2.4]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 BLHS các các bị cáo Cù A T và Đỗ Quốc H còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nhưng theo xác minh của cơ quan điều tra thì các bị cáo không có tài sản gì riêng có giá trị nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[2.5] Về vật chứng:

- Đối với: 01 kìm cộng lực bằng kim loại nhãn hiệu MEI MFA đã bị gỉ sét, biến đổi màu sắc kim loại thành màu nâu đỏ, kìm dài 0,91 m, cán kìm là 02 ống kim loại dài 0,74 m, đường kính 0,03m, lưỡi kìm dài 0,17 Tới dùng để cắt khóa hòm tôn là tài sản của bị hại anh Vũ Mạnh L, cần trả lại cho anh Linh tài sản trên.

- Đối với: 01 ổ khóa màu vàng, nhãn hiệu “Việt Tiệp” kích thước 0,073x0,05m, khóa trong trại thái đóng, móc khóa bị cắt thành hai phần, vết cắt tương đối sắc gọn là tài sản của bị hại anh Vũ Mạnh L, cần trả lại cho anh Linh tài sản trên.

- Đối với: 01 mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ, đen, bạc và 01 BKS 19K8-xxxx; 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 001xxxx cho xe mô tô BKS 19K8- xxxx mang tên Hà Quang H qua quá trình điều tra xác minh xác định đây là tài sản của ông Đỗ Quốc H (Bố đẻ của Đỗ Quốc H) mua của anh Trần Mạnh Tr, sinh năm 1983 ở khu 8 thị trấn T để gia đình sử dụng đi lại hàng ngày.

Qúa trình mua bán xe có đầy đủ giấy tờ mua bán. Việc H sử dụng chiếc xe trên để đi trộm cắp tài sản ông Hùng không biết. Vì vậy, cần trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Đỗ Quốc H.

- Đối với 01 máy đục bê tông nhãn hiệu 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0804 và 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu JASIC Weldcom, ARC 200(R04) đã qua sử dụng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại hai chiếc máy trên cho anh Vũ Mạnh L. Sau khi nhận lại tài sản anh Linh không có yêu cầu gì khác cần xác nhận là hợp pháp.

[2.6] Về bồi thường dân sự : Do anh Linh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

[2.7]Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo có mặt, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[2.8] Đề nghị của đại diện VKSND huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Cù A T.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đỗ Quốc H.

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Cù A T, bị cáo Đỗ Quốc H phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Cù A T 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 09/11/2021.

- Bị cáo Đỗ Quốc H 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Cù A T, bị cáo Đỗ Quốc H.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị hại anh Vũ Mạnh L:

+ 01 ổ khóa màu vàng, nhãn hiệu “Việt Tiệp” kích thước 0,073x0,05m, khóa trong trại thái đóng, móc khóa bị cắt thành hai phần, vết cắt tương đối sắc gọn.

+ 01 kìm cộng lực bằng kim loại nhãn hiệu MEI MFA đã bị gỉ sét, biến đổi màu sắc kim loại thành màu nâu đỏ, kìm dài 0,91 m, cán kìm là 02 ống kim loại dài 0,74 m, đường kính 0,03m, lưỡi kìm dài 0,17.

- Trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Quốc H:

+ 01 xe mô tô không biển kiểm soát, nhãn hiệu HONDA WAVE, màu đỏ, đen, bạc.

+ 01 biển kiểm soát 19K8-xxxx.

+ 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 001xxxx cho xe mô tô BKS 19K8-xxxx mang tên Hà Quang H, địa chỉ khu 7, xã L, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/10/2021).

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 máy đục bê tông nhãn hiệu 01 máy đục bê tông nhãn hiệu Hndai HMD0804 và 01 máy hàn hồ quang nhãn hiệu JASIC Weldcom, ARC 200(R04) đã qua sử dụng cho anh Vũ Mạnh L ngày 05/08/2021 là hợp pháp.

4. Về bồi thường dân sự: Do anh Linh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự .

Điểm a, Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Cù A T và bị cáo Đỗ Quốc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6.Về Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo Bản án, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2021/HS-ST

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về