TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 47/2022/HSST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 14 tháng 6 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2022. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên toà số 30/QĐHPT ngày 31 tháng 5 năm 2022 đối với:
Họ và tên bị cáo:Trần Nhật Q (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1989. Tại Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 4, xã ThM, Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Th (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Kh, sinh năm: 1954; Vợ: Đỗ Thị Thu H4, sinh năm 1990; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền sự, tiền án: Không.
Nhân thân:
- Tại bản án số 130/2021/HSST ngày 08/12/2021, bị Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo chưa thi hành án bản án.
- Tại bản án số 14/2022/HSST ngày 27/4/2022, bị Tòa án nhân dân Huyện Thanh thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của bản án số 130/2021/HSST ngày 08/12/2021. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bàn án là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.
Bị bắt tạm giam từ ngày 24/12/2021, hiện đang tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Phú Thọ.
* Bị hại:
- Chị Nguyễn Thị Thu H2, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Thôn TL, xã TB, Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Phạm Quốc H3, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Thôn 2, xã ThM, Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Chị Phùng Thị H4, sinh năm 1979.
Địa chỉ: Thôn Ph M A, xã PS, Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
( Chị H4 vắng mặt tại phiên toà, anh H3, chị H2 có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 03/4/2021, Trần Nhật Q đi bộ quanh thôn TL, xã TB, Huyện Ba Vì, TP Hà Nội với mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp thì phát hiện nhà chị Nguyễn Thị Thu H2 không đóng cửa cổng, trong nhà không có ai, tại sân để một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh- đen biển kiểm soát 33N9-6681 đang cắm chìa khóa ở ổ khóa xe. Q đi bộ vào trong sân đến chỗ dựng chiếc xe dùng tay bật ổ khóa điện, ngồi lên xe, lùi xe ra cổng rồi điều khiển xe mô tôđi đến cửa hàng xăng dầu xã Tản Lĩnh có địa chỉ tại thôn Đức Thịnh, xã Tản Lĩnh, Huyện Ba Vì để đổ xăng. Tại đây Q gặp anh Phạm Quốc H3 là nhân viên bán xăng, biết anh H3 là bạn của anh trai mình nên Q đã chủ động bắt cHuyện với anh H3 và muốn bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 cho anh H3 với giá là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Anh H3 yêu cầu Q viết giấy cam kết chiếc xe trên là của Q và xe bị mất giấy tờ nên anh H3 đã đồng ý mua chiếc xe mô tô này với giá là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Số tiền bán xe Q đã tiêu sài cá nhân hết. Đến cuối tháng 4/2021, anh Phạm Quốc H3 đã bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 cho chị Phùng Thị H4 với giá là 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm nghìn đồng). Đến ngày 18/11/2021, anh Chu Minh Thắng là chồng H4 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 đi trên đường thì chị Nguyễn Thị Thu H2 phát hiện và trình báo cơ quan Công an.
Cơ quan CSĐT Công an Huyện Ba Vì đã tiến hành thu giữ 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn xanh đen, BKS: 33N9-6681, số khung: 170930, số máy: 5270678 (đã qua sử dụng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 136/2021/KL-ĐGTS ngày 05 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Huyện Ba Vì, TP Hà Nội kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn xanh-đen biển kiểm soát 33N9-6681; có số khung: 170930, số máy: 5270678 (Đã qua sử dụng). Tổng trị giá là: 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).
Tại phiên tòa bị cáo Trần Nhật Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 18/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Ba Vì đã truy tố, tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.
Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bốbị cáo Trần Nhật Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b,s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Nhật Q từ 09 đến 12 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 21 (Hai mươi mốt) tháng tù của bản án số 14/2022/HSST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là30 tháng đến 33 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2021.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Thu H2 đã được CQĐT trao trả tài sản nên không có yêu cầu gì khác về dân sự.
+ Đối với yêu cầu của anh Phạm Quốc H3 là người đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 của Trần Nhật Q. Anh H3 đã nhận được số tiền 2.000.000đ do gia đình bị cáo bồi thường, nay không có yêu cầu gì thêm.
+ Đối với yêu cầu của chị Phùng Thị H4 là người mua lại xe của anh H3, chị H4 không biết chiếc xe mô tô trên là tài sản do phạm tội mà có.Chị H4 đã nhận lại số tiền 3.800.000 đồng do anh H3 trả và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện Ba Vì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Ba Vì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về nội dung vụ án: Sáng ngày 03/4/2021 bị cáo Trần Nhật Q đã lén lút trộm cắp một xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh- đen biển kiểm soát 33N9-6681 của chị Nguyễn Thị Thu H2, tổng trị giá là: 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy hành vi của bị cáo Trần Nhật Q đãphạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Viện kiểm sát nhân dân Huyện Ba Vì truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tài sảncủa người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo và đấu tranh phòng ngừa chung.
[3] Vềnhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Tại bản án số 130/2021/HSST ngày 08/12/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo chưa thi hành án bản án. Đến ngày 27/4/2022 bị cáo lại bị Tòa án nhân dân Huyện Thanh thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của bản án số 130/2021/HSST ngày 08/12/2021. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bàn án là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy bị cáo là người có nhân thân xấu. Tuy nH4, do hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện trong vụ án này xẩy ra trước hành vi phạm tội mà bị cáo đã bị Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xét xử nên bị cáo không bị coi là tái phạm. Đến thời điểm xét xử vụ án này thì bản án số 14/2022/HSST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ đã có hiệu lực do đó phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều 56 BLHS.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho anh H3, bố bị cáo là ông Trần Văn Th được tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng năm 1975, Huân chương kháng chiến hạng nhì năm 1984, tặng Bằng khen của Hội CCB Hà Nội, Huân chương chiến sĩ vẻ vang nhì, ba năm 1984. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[5] Về trách nhiệm dân sự:Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho chị Nguyễn Thị Thu H2, nay chị H2 không có đề nghị gì thêm về mặt dân sự nên Hội đồng xét xửkhông xem xét.
+ Đối với yêu cầu của anh Phạm Quốc H3 là người đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 của Trần Nhật Q. Anh H3 đã nhận được số tiền 2.000.000đ do gia đình bị cáo bồi thường, nay không có yêu cầu gì thêm. Do vậy, HĐXX không xem xét.
+ Đối với yêu cầu của chị Phùng Thị H4 là người mua lại xe của anh H3, chị H4 không biết chiếc xe mô tô trên là tài sản do phạm tội mà có.Chị H4 đã nhận lại số tiền 3.800.000 đồng do anh H3 trả và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Do vậy, HĐXX không xem xét.
[6] Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn xanh-đen biển kiểm soát 33N9-6681; có số khung: 170930, số máy: 5270678 (Đã qua sử dụng). Quá trình điều tra đã xác định chủ sở hữu là của chị Nguyễn Thị Thu H2. Cơ quan CSĐT Công an Huyện Ba Vì đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị H2 theo đúng quy định của pháp luật nên HĐXX không xét.
[7] Đối với anh Phạm Quốc H3 là người đã mua chiếc xe mô tô biển kiểm soát 33N9-6681 của Trần Nhật Q. Khi mua xe anh H3 không biết chiếc xe mô tô trên do Q phạm tội mà có và chị Phùng Thị H4 là người mua lại xe của anh H3, khi mua xe chị H4 cũng không biết chiếc xe mô tô trên là tài sản do phạm tội mà có.
Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an Huyện Ba Vì không đề cập xử lý anh H3 và H4 trong vụ án này nên HĐXX không xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Nhật Q phạm tội “Trộm cắp tài sản“.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Nhật Q 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 21 (Hai mươi mốt) tháng tù của bản án số 14/2022/HSST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2021.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 BLHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Nhật Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2022/HSST
Số hiệu: | 47/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về