TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 47/2021/HS-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 09 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, T Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2021/HSST ngày 09 tháng 8 năm 2021theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST-HS ngày 20/8/2021 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Tiến T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1991, tại T Thái Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 4, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Tiến T1(sinh năm 1966) và con bà Vũ Thị D (đã chết);Vợ: Liễu Thị Minh Th (đã ly hôn năm 2017), con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Theo bản án số 51/2017/HSST ngày 24/9/2017 Nguyễn Tiến T bị Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và xử phạt 18 tháng tù. Ngày 16/12/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt và các quyết định khác của bản án. Tính đến lần phạm tội này đã được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/5/2021 đến ngày 28/5/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại Phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, do vi nghĩa vụ cam đoan nên ngày 27/8/2021 bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
* Những người tham gia tố tụng khác:
- Bị hại: Anh Phạm Viết L, sinh năm: 1982 Địa chỉ: Tổ 14, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Tạ Văn H, sinh năm 2000 Địa chỉ: Thôn 4, xã Y, huyện H, tỉnh Yên Bái. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Vào khoảng 15 giờ, ngày 21/5/2021 Nguyễn Tiến T đi bộ trên đường Nguyễn Chí Thanh, thuộc tổ 7, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Khi T đến trước cửa xưởng cơ khí cạnh quán vịt 9999 thì T thấy có một chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám, biển kiểm soát (BKS) 22Y1- 243.34 dựng ở gốc cây, có cắm sẵn chìa khóa (T không biết xe này của anh Phạm Viết L). Quan sát xung quanh không thấy người, T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe nên đã ngồi lên xe và điều kH xe đến giấu tại bãi đất trống, phía sau Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu. Sau đó T mở cốp xe thấy có sẵn chiếc cờ lê, T dùng để tháo biển số xe cất vào trong cốp, rồi đi bộ ra trước cổng bệnh viện chờ đến khuya thì mang xe máy sang tỉnh Lào Cai để bán.
Khoảng 23 giờ cùng ngày T quay lại nơi cất giấu chiếc xe rồi điều kH xe theo hướng Bản Giang xuống huyện Tam Đường rồi sang Lào Cai. Trên đường đi T vứt biển kiểm soát của xe ở khu vực cột mốc chỉ cách huyện Tam Đường 10km. Khi Nguyễn Tiến T đi đến chốt kiểm dịch thuộc xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu thì T bị lực lượng chức năng kiểm tra phát hiện chiếc xe máy T đang điều kH có đặc điểm phù hợp với chiếc xe máy mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đã thông báo truy tìm ngày 21/5/2021. Nên lực lượng chức năng đã thông báo cho Công an thành phố Lai Châu biết, đến phối hợp và lập biên bản ghi nhận sự việc. Vật chứng thu giữ là chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển kiểm soát 22Y1-243.34, số khung RLCUG1010LY292564, số máy G3D4E1063605, xe không lắp biển kiểm soát, kèm 01 chìa khóa màu đen, 01 chiếc cờ lê bằng kim loại màu trắng dài 12,5 cm (đều đã qua sử dụng).
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Tiến T được biết chiếc xe máy này của anh Phạm Viết L và đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc xe máy như trên.
Các vấn đề khác của vụ án:
Trên cơ sở lời khai của Nguyễn Tiến T, ngày 22/5/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đã tiến hành truy tìm vật chứng là biển kiểm soát 22Y1-243.34 của chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám, nhưng không có kết quả.
Kết luận định giá tài sản số 16/KLĐG ngày 27/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Lai Châu kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển kiểm soát 22Y1-243.34, mua và sử dựng dụng từ năm 2020 tính đến ngày 21/5/2021 có giá trị là 42.291.000 đồng.
Kết quả điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe trên là anh Tạ Văn H. Ngày 19/5/2021 anh H đã cho anh L mượn chiếc xe trên để đi, còn chiếc cờ lê là của anh L. Vì vậy, ngày 17/7/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại toàn bộ tài sản trên cho anh Phạm Viết L.
Cáo trạng số 34/CT - VKSTP ngày 09/08/2021của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Tiến T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận định giá tài sản mà bị cáo trộm cắp và Quyết định truy tố nêu trên.
Tại phiên tòa bị hại anh Phạm Viết L trình bày anh đã được nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo bồi thường gì, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T nghiêm theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Tạ Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, tuy nhiên tại bút lục 143, 144 anh H thể hiện không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự và không có ý kiến gì về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ trước đó. Thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2021.
Về trách nhiệm dân sự: bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về vật chứng vụ án: là chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển kiểm soát 22Y1-243.34, số khung RLCUG1010LY292564, số máy G3D4E1063605, 01 chìa khóa xe, 01 chiếc cờ lê, ngày 17/7/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại toàn bộ tài sản trên cho anh Phạm Viết L, nên không xem xét giải quyết.
Áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến tranh luận của bị cáo Nguyễn Tiến T: Bị cáo cho rằng sau khi hành vi của bị cáo bị phát hiện, bị cáo tự nguyện giao nộp tài sản trộm cắp cho cơ quan điều tra là thuộc trường hợp đã tự nguyện khắc phục hậu quả. Vì vậy, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần này thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đề nghị Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Ý kiến đối đáp của Kiểm sát viên: Sau khi hành vi phạm tội của bị cáo bị phát hiện tại chốt kiểm dịch covid 19 số 1 thuộc bản Chu Va 12, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu, bị cáo có thái độ chấp hành, thời điểm đó bị cáo có nghĩa vụ buộc phải giao tài sản trộm cắp cho Cơ quan điều tra, không phải là tự giác giao nộp, hơn nữa thực tế bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường thiệt hại gì cho bị hại. Hành vi mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ của bị cáo mặc dù được cơ quan chức năng phát hiện ngăn chặn kịp thời, nhưng cũng đã gây thiệt hại về tinh thần cho bị hại, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại. Năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án xét xử nên hành vi của bị cáo cũng không thuộc trường hợp phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nên không có căn cứ cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không có căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Tại lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Tiến T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, Biên bản ghi nhận sự việc và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 15 giờ ngày 21/5/2021 tại khu vực vỉa hè phía trước xưởng cơ khí hàn xì của anh Phạm Viết L thuộc tổ 7, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, T Lai Châu Nguyễn Tiến T vì mục đích tư lợi cá nhân đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của anh Phạm Viết L đã lấy trộm của anh Lăng chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển kiểm soát 22Y1-243.34, có giá trị là 42.291.000 đồng.
Bị cáo Nguyễn Tiến T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lai Châu.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Nguyễn Tiến T cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Điều luật quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:….” Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng quy định của pháp luật.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và phải đi chấp hành án nhưng không lấy đó làm bài học, mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự.
Xét đề nghị của bị cáo về việc cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử xét thấy: khi hành vi trái pháp luật của bị cáo bị phát hiện bị cáo buộc phải giao tài sản trộm cắp cho cơ quan chức năng là nghĩa vụ bị cáo buộc phải thực hiện không thuộc trường hợp người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tài sản trộm cắp được trả lại cho bị hại là nằm ngoài mục đích ban đầu của bị cáo và hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án xét xử (thể hiện trong phần lý lịch của bị cáo) nên lần phạm tội này không được coi là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo Giải đáp 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không có căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ nghiêm khắc để giáo dục, răn đe giúp bị cáo cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội. [4] Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo là lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[5] Về vật chứng của vụ án: là chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển kiểm soát 22Y1-243.34, số khung RLCUG1010LY292564, số máy G3D4E1063605, xe không lắp biển kiểm soát, kèm 01 chìa khóa màu đen, 01 chiếc cờ lê bằng kim loại màu trắng dài 12,5 cm (đều đã qua sử dụng). Ngày 17/7/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại toàn bộ tài sản trên cho anh Phạm Viết L là phù hợp với khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 , Điều 38 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự; Điều 331, 333, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T 02 (Hai) năm tù. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/5/2021 đến ngày 28/5/2021 (06 ngày), bị cáo còn phải chấp hành 01 (Một) năm 11 (Mười một tháng) 24 (Hai mươi tư) ngày tù. Thời hạn hình phạt tù tính từ ngày 27/8/2021
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo lên tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2021/HS-ST
Số hiệu: | 47/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về