TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 09/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022, đối với bị cáo:
Phạm Quốc L (tên gọi khác: L), sinh ngày: 04/3/1999 tại H, Quảng Nam; nơi cư trú: phường S, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Duy Q1 (sinh năm 1979) và bà Nguyễn Thị Thanh T (sinh năm 1979); bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án: ngày 27/8/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/10/2021.
Tiền sự: ngày 27/5/2020, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xử dụng trái phép chất ma tuý, hình thức xử phạt: phạt tiền, bị cáo chưa chấp hành.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam kể từ ngày 22/7/2022, có mặt tại phiên tòa.
Đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Phạm Duy Q1, sinh năm 1979 (Vắng mặt) và bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1979 (Có mặt).
Địa chỉ: phường S, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. (Là cha mẹ ruột của bị cáo).
Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Thành C1, Công ty Luật TNHH TT, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam. (Có mặt) Địa chỉ: Đường L, tổ 1, khối T, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
- Bị hại:
1) Ông Phạm Đ1, sinh năm 1970. (Vắng mặt) Địa chỉ: phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
2) Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1974.(Vắng mặt) Địa chỉ: phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
3) Ông Trần Đ2, sinh năm 1966. (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 13, khối A, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
4) Em Nguyễn Hồng N, sinh ngày 25/9/ 2006. (Vắng mặt) Địa chỉ: khối T, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
Đại diện hợp pháp của em N: Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1971.
Địa chỉ: khối T, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. (Là cha ruột của cháu N).(Vắng mặt) - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1) Bà Trương Thị Bích S, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Địa chỉ: phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
2) Ông Lê Văn Đ3, sinh năm 1987. (Vắng mặt) Địa chỉ: phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
3) Ông Nguyễn Đ4, sinh năm 1985. (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 27, thôn B, xã C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
4) Ông Lê Anh X, sinh năm 1992. (Vắng mặt) Địa chỉ: xã C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
5) Ông Võ Văn Q2, sinh năm 1997. (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 16, thôn Đ, xã C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong tháng 4 năm 2022, bị cáo Phạm Quốc L (tên gọi khác là L) đã thực hiện 03 (Ba) vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố H, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 22 giờ 00 ngày 04/4/2022, bị cáo L lấy trộm 01 (Một) xe máy điện hiệu M133S màu đỏ của ông Phạm Đ1 đang để trên vỉa hè trước nhà, đem cất giấu phía sau nhà ông Nguyễn Đ4. Sau đó, khoảng 23 giờ 15 phút cùng ngày, bị cáo lấy trộm 05 (Năm) thùng bia Larue của bà Nguyễn Thị P, mang về để tại khu vực gần nhà của mình. Sáng sớm hôm sau, L mang 05 (Năm) thùng bia bán cho bà Trương Thị Bích S được 1.000.000 đồng, lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ 00 ngày 17/4/2022, bị cáo lén lút đi vào nhà hàng KC của ông Trần Đ2, lấy trộm 01 (Một) bộ máy vi tính để bàn (gồm: 01 CPU hiệu Celeron G3930, Ram 4Gb; 01 màn hình hiệu BenQ màu đen 19 inch; 01 bàn phím hiệu Eblue màu đen; 01 chuột hiệu Loghitech màu đen; 01 cặp loa mini hiệu SoundMax A-130 màu xanh cùng bộ dây nguồn kết nối) bỏ vào trong bao tời, đem cất giấu tại phòng trọ của ông Lê Anh X rồi bán cho ông Lê Văn Đ3 được 1.000.000 đồng và tiêu xài hết số tiền này.
Vụ thứ ba: Khoảng 16 giờ 00 ngày 22/4/2022, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, L lén lút lấy trộm của em Nguyễn Hồng N 01(Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 8 màu đỏ đem đến cất giấu tại nhà ông Võ Văn Q2. Điện thoại đã được bà Nguyễn Thị Thanh T (mẹ ruột của L) giao nộp cho Công an phường T.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 33/KL-ĐGTS ngày 31/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H xác định: 01 xe máy điện hiệu M133S màu đỏ của ông Phạm Đ1 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 3.000.000 đồng; 05 thùng bia Larue (01 thùng 24 lon) của bà Nguyễn Thị P tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 1.150.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá số: 21/KL-ĐGTS ngày 30/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H xác định 01 (Một) bộ máy vi tính để bàn (gồm: 01(Một) CPU hiệu Celeron G3930, Ram 4Gb; 01 (Một) màn hình hiệu BenQ, màu đen 19 inch; 01 (Một) bàn phím hiệu Eblue, màu đen; 01 (Một) chuột máy vi tính hiệu Loghitech, màu đen; 01 (Một) cặp loa mini hiệu SoundMax A-130, màu xanh cùng bộ dây nguồn kết nối) của ông Trần Đ2 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 2.012.000 đồng; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 8 màu đỏ của em Nguyễn Hồng N tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 800.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Phạm Quốc L chiếm đoạt trong vụ án này là 6.962.000 đồng (Sáu triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 46/CT-VKSHA-HS ngày 03 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Phạm Quốc L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi,bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo với tội danh trên; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “phạm tội 02 lần trở lên”, "tái phạm” và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị P và anh Lê Văn Đ3; phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; đã tự thú các lần trộm cắp tài sản trước đó; bị hại Nguyễn Thị P xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, q, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Quốc L từ 01(Một) năm đến 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Bị cáo Phạm Quốc L thừa nhận hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại, rất ăn năn, hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo, Luật sư Nguyễn Thành C1 thống nhất tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã xác định; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt là 06 (Sáu) tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Phạm Quốc L đã khai nhận: Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của các bị hại, ngày 04/4/2022, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt của ông Phạm Đ1 01 (Một) xe máy điện hiệu M133S màu đỏ; của bà Nguyễn Thị P 05(Năm) thùng bia; ngày 17/4/2022; chiếm đoạt của ông Nguyễn Đức 01(Một) bộ máy vi tính để bàn và ngày 22/4/2022; chiếm đoạt của em Nguyễn Hồng N 01(Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 8 màu đỏ. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt được là: 6.962.000 đồng (Sáu triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn đồng). Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị hại, của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Hành vi của bị cáo Phạm Quốc L đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo L về tội:“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi,bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật, cần được chấp nhận.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:
Tội phạm mà bị cáo gây ra xâm phạm đến khách thể là tài sản của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo Phạm Quốc L đã nhận thức được rằng việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật, nhưng vì muốn kiếm tiền để tiêu xài cho bản thân mà không cần phải bỏ sức lao động nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, mới vừa chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/10/2021 nhưng vẫn không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà vẫn tiếp tục vi phạm. Do đó, cần thiết phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Phạm Quốc L đã 03(Ba) lần thực hiện hành vi phạm tội vào các ngày 04, 17 và 22 tháng 4 năm 2022. Trong đó có 02 (Hai) lần phạm tội vào các ngày 04 và ngày 22 tháng 4 năm 2022 đều có giá trị tài sản chiếm đoạt trên 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) nên thuộc tình tiết:“Phạm tội hai lần trở lên”. Ngoài ra, ngày 27/8/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc tình tiết:“Tái phạm”. Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này được quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị P và anh Lê Văn Đ3; phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người có bệnh, bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; đã tự thú các lần trộm cắp tài sản trước đó; bị hại Nguyễn Thị P xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, q, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đây là tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo một phần mức hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thành phố H đã thu giữ: 01 (Một) xe máy điện hiệu M133S màu đỏ, 01(Một) bộ máy vi tính để bàn (gồm: 01 CPU hiệu Celeron G3930, Ram 4Gb; 01 màn hình hiệu BenQ màu đen 19 inch; 01 bàn phím hiệu Eblue màu đen; 01 chuột hiệu Loghitech màu đen; 01 cặp loa mini hiệu SoundMax A-130 màu xanh cùng bộ dây nguồn kết nối), 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 8 màu đỏ và 01 (Một) USB màu trắng bên trong chứa đoạn video ghi lại hình ảnh đối tượng trộm cắp tài sản vào ngày 17/4/2022 tại nhà hàng KC. Sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Phạm Đ1 01 (Một) xe máy điện hiệu M133S màu đỏ; trả lại cho ông Trần Đ2 01 (Một) bộ máy vi tính để bàn; trả lại cho em Nguyễn Hồng N 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 8 màu đỏ là đúng pháp luật.
Riêng với 01 (Một) USB màu trắng là phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử, tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án là phù hợp.
[6] Về phần dân sự: Các bị hại không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về các vấn đề khác có liên quan:
Bị cáo L trộm cắp 01 (Một) xe máy điện mang đến để tại nhà của ông Nguyễn Đ4 và trộm 01 (Một) điện thoại di động rồi mang đến để tại nhà ông Võ Văn Q2; ông Đ4 và ông Q2 không biết nên không bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H xử lý là phù hợp.
Bà Trương Thị Bích S đã mua 05(Năm) thùng bia Larue và ông Lê Văn Đ3 đã mua 01(Một) bộ máy vi tính để bàn của bị cáo L; bà S và ông Đ3 không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nên không bị xử lý là có căn cứ.
Do hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Phạm Quốc L thuộc khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên hành vi không tố giác tội phạm của ông Lê Anh X không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H không xử lý đối với ông X đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc L (tên gọi khác: L) phạm tội: "Trộm cắp tài sản".
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, q; r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Phạm Quốc L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam (22/7/2022).
Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Quốc L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Phạm Quốc L có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/11/2022). Những người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2022/HS-ST
Số hiệu: | 45/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về