Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 32/2023/TLST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Cao Thành Đ ạt; giới tính: nam; sinh năm: 1996; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 73/11 Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H; nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cao Thành D và bà: Phan Thị Đ; Hoàn cảnh gia đình: chưa vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam ngày: 17/11/2022 (có mặt)

- Bị hại: Chị Lê Thị Ngọc H, sinh năm 2003;

Địa chỉ thường trú: Ấp Đường A, xã M, hyuyện B, Thành phố H;

Địa chỉ tạm trú: 11A Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Hộ kinh doanh Phát Đ ; địa chỉ: 117 Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H ‘

Người đại diện hợp pháp: ông Võ Trung H, sinh năm: 1976, địa chỉ: 117 Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H. (Vắng mặt)

2/ Hộ kinh doanh Cầm đồ T2; địa chỉ: 147 Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp: bà Huỳnh Thị D1 H, sinh năm: 1987, địa chỉ: 392/20/58 Đường A, Phường M, quận B, Thành phố H. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 13/11/2022, Cao Thành Đ  gặp anh Phạm Công D xin ở nhờ thìD đồng ý.D và Đđi về phòng trọ tại địa chỉ 11A B, Phường 13, quận Tân Bình, do anh D thuê Phòng 816 để ở cùng với chị Lê Thị Ngọc H. Khoảng 10 giờ ngày 14/11/2022, anh D và chị H đi làm. Do cần tiền tiêu xài nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Cao Thành Đ tìm thấy chìa khóa xe, thẻ giữ xe và giấy đăng ký xe mô tô biển số 62E1-xxxxx. Đliền lấy trộm xe đến tiệm cầm đồ Đ, địa chỉ: 117 D, Phường 4, Quận 8 cầm xe mô tô biển số 62E1-xxxxx cho anh Võ Trung H với giá 10.000.000 đồng. Đ chơi cá cược qua mạng Internet và bị thua hết số tiền này. Sau đó, Đđi xe ôm về lại phòng trọ 816.

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15/11/2022, sau khi anh D và chị H đã rời đi khỏi phòng trọ đi làm, Đ tiếp tục nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của anh D và chị H để có tiền chơi cá cược qua mạng. Đđi lên gác và thấy máy tính xách tay hiệu HP màu đen nên lấy trộm và gọi điện hỏi anh D mật khẩu, nói dối là để sử dụng nhưng thực chất là để dễ đem đi cầm cố. Sau khi được anh D cho mật khẩu máy, Đ mang đến tiệm cầm đồ T2, địa chỉ: 147 Lý Thái Tổ, Phường 9, Quận 10 cầm với giá 8.000.000 đồng. Đ cũng sử dụng số tiền này chơi cá cược qua mạng và bị thua hết. Khoảng 14 giờ ngày 15/11/2022, sau khi đi làm về phòng trọ 816 không thấy Đạt, anh D đã kiểm tra phát hiện mất số tài sản trên, nghi ngờ Đ lấy trộm nên gọi điện thoại cho Đạt, Đthừa nhận lấy trộm các tài sản nêu trên và không có khả năng trả lại tài sản.

Anh D và chị H đã trình báo sự việc trên đến cơ quan công an. Tại Cơ quan điều tra, bị can Cao Thành Đ đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Theo kết luận định giá số 15/HĐĐGTS-TTHS ngày 14/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình, xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha, biển số 62E1-xxxxx trị giá 16.000.000 đồng; máy tính xách tay hiệu HP Victus by 16-e0170AX AMD Ryzen 7-5800H màu đen trị giá 15.800.000 đồng.

Về phần dân sự: Bị hại Lê Thị Ngọc H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và cam kết không thắc mắc, khiếu nại gì về sau. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có người đại diện là ông Võ Trung H yêu cầu bị cáo bồi thường lại tiền cầm cố xe là 10.000.000 đồng; và bà Huỳnh Thị D1 Hiền yêu cầu bị cáo bồi thường lại tiền cầm cố máy tính xách tay là 8.000.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: xe mô tô biển số 62E1-xxxxx và máy tính xách tay hiệu HP màu đen đã thu hồi trả lại cho chị Lê Thị Ngọc H. 01 hợp đồng cầm xe mô tô, biển số 62E1-xxxxx; 01 hợp đồng cầm máy tính xách tay hiệu HP màu đen; 01 USB lưu dữ liệu camera ghi hình Đ trộm cắp xe mô tô biển số 62E1- xxxxx (đã niêm phong) Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSQTB ngày 13 tháng 3 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Cao Thành Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hính sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 02 năm tù.

Về phần trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường nên ghi nhận; buộc bị cáo có trách nhiệm trả lại tiền theo cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Về vật chứng, Viện kiểm sát đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Cao Thành Đ ạt, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Cao Thành Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô trị giá 16.000.000 đồng và máy tính xách tay trị giá 15.800.000 đồng của bị hại. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 31.800.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, lười lao động nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: trong vụ án này bị cáo hai lần thực hiện trộm cắp tài sản của bị hại thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5 Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Lê Thị Ngọc H đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Đại diện hợp pháp của Hộ kinh doanh Phát Đ yêu cầu bị cáo trả lại tiền đã cầm cố xe máy với số tiền 10.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của Hộ kinh doanh Cầm đồ T2 yêu cầu bị cáo trả lại tiền đã cầm cố máy tính xách tay với số tiền 8.000.000 đồng. Xét yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ nên buộc bị cáo có trách nhiệm trả số tiền 10.000.000 đồng cho Hộ kinh doanh Phát Đ và 8.000.000 đồng cho Hộ kinh doanh Cầm đồ T2.

[6 Về tang vật vụ án: Đối với 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh Cao Thành Đ chiếm đoạt tài sản, 02 hợp đồng cầm cố xe máy và máy tính xách tay, xét đây là tài liệu chứng cứ về hành vi phạm tội của bị cáo cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ Điều 589 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1 Tuyên bố bị cáo Cao Thành Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt  ị cáo : Cao Thành Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2022.

2 Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo trả cho Hộ kinh doanh Phát Đ số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; trả cho Hộ kinh doanh Cầm đồ T2 số tiền 8.000.000 (tám triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[3] Xử lý vật chứng của vụ án: Tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh Cao Thành Đ chiếm đoạt tài sản (đã niêm phong); 01 hợp đồng cầm xe mô tô, biển số 62E1-xxxxx (bút lục số100); 01 hợp đồng cầm máy tính xách tay hiệu HP màu đen (bút lục số 101).

[4 Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 900.000 (Chín trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5 Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ,

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-ST

Số hiệu:44/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về