TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 18/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST- HS ngày16/5/2023 đối với bị cáo:
Bàn Văn Q, tên gọi khác: không, sinh ngày 20/4/1983 tại huyện HY, tỉnh TQ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, MN, xã T, huyện HY, tỉnh TQ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (Học vấn): 03/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Bàn Tiến N, sinh năm 1958 và con bà Cao Thị A, sinh năm 1959; Có vợ là Quan Thị T (đã ly hôn); Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: không; Tiền sự: không.
Nhân thân: Năm 2011, bị TAND huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 05 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Năm 2017 bị TAND huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2023 đến ngày xét xử (có mặt tại phiên toà).
Tại điểm cầu trung tâm:
-Bị hại: Anh Phạm Văn L, sinh năm 1978 và chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1975 (là vợ chồng); Địa chỉ: Cùng ở bản TB, xã GP, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Đều vắng mặt, có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 19/02/3023, Bàn Văn Q đi xe khách từ tỉnh Bắc Ninh lên huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Khi đi mang theo bộ dụng cụ phá khóa xe gồm: 02 tay công, 04 đầu tua vít với mục đích trộm xe máy, khoảng 19 giờ cùng ngày khi xe khách đi đến địa phận xã GP, huyện Phù Yên, Q xuống xe, đi bộ dọc tuyến đường QL37, khi đi đến trước cửa nhà anh Phạm Văn L, Q thấy 01 chiếc xe mô tô BKS:
26D1-07839, hiệu Honda Supper Dream, màu nâu, xe không rút chìa khoá dựng trước cửa nhà, quan sát không thấy người trông coi, Bàn Văn Q dắt xe máy ra đường nổ máy và điều khiển xe đi theo QL37 của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La rồi đi theo QL6 về hướng thành phố Hoà Bình khi đến địa phận huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Phù Yên và Công an huyện Mai Châu phối hợp yêu cầu dừng xe để kiểm tra, qua kiểm tra đã phát hiện Q có dấu hiệu phạm tội, nên đã thu giữ vật chứng và đưa về Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La để điều tra làm rõ.
Ngày 20/02/3023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên, yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Yên, tiến hành định giá tài sản là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, có BKS: 26D1- 07839. Tại Kết luận định giá tài sản số 06/KLĐGTS ngày 20/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu BKS: 26D1-07839 có trị giá 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng).
Ngày 22/02/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên đã ra Q định xử lý vật chứng bằng hình thức: Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu BKS: 26D1-07839 và 01 Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Lan A cho anh Phạm Văn L.
Về bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản nói trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản chi phí nào khác.
Cáo trạng số: 22/CT-VKS ngày 17 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Bàn Văn Q về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bàn Văn Q phạm tội Trộm cắp tài sản và các điều luật được áp dụng như sau:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS Xử phạt bị cáo Bàn Văn Q từ 15 đến 18 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu huỷ 02 tay công hình chữ L bằng kim loại màu trắng bạc hiệu Kamusi và 04 đầu tô vít mài dẹt bằng kim loại màu nâu số hiệu PH3X80L dài 0,8cm đựng trong một phong bì thư niêm phong.
Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã trả lại cho bị hại là cho chủ sở hữu hợp pháp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, có BKS: 26D1-07839 số khung 305667, số máy 1608793 và 01 Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Lan A cho người nhận là anh Phạm Văn L.
-Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Bàn Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo Bàn Văn Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Bị hại Anh Phạm Văn L, và chị Nguyễn Thị Lan A (là quan hệ vợ chồng) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và nêu rõ ý kiến đối về tài sản đã nhận lại với cơ quan điều tra là 01 chiếc xe máy và không yêu cầu bồi thường gì thêm, căn cứ khoản 1 Điều 292 của BLTTHS Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với nội dung bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo đã thực hiện. Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với đơn trình báo của bị hại; Vật chứng thu giữ, Kết luận định giá tài sản; Lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bàn Văn Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS: 26D1-07839 có trị giá là 16.000.000đ của bị hại anh Phạm Văn L. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 của BLHS có quy định mức hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ; gây mất tình hình an ninh trật tự tại địa phương nói riêng và trên địa bàn huyện Phù Yên nói chung.
Xét về nhân thân của bị cáo: Ngày 28/9/2011 bị TAND huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 05 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 26/9/2017 bị TAND huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã chấp hành xong án phạt tù và các quyết định khác của bán án, theo quy định bị cáo đương nhiên được xóa án tích, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu; Khi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần bị xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo không có, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có một tình tiết như phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bản thân bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản chi phí nào khác, do đó HĐXX không xem xét.
[5] Về vật chứng của vụ án: Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã trả lại tài sản là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS: 26D1-07839 số khung 305667, số máy 1608793 và 01 Giấy bảo hiểm dân sự bắt buộc xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Lan A cho người đứng nhận tài sản là anh Phạm Văn L.
Riêng 02 tay công hình chữ L bằng kim loại màu trắng bạc hiệu Kamusi và 04 đầu tô vít mài dẹt bằng kim loại màu nâu số hiệu PH3X80L dài 0,8cm (là dụng cụ dùng để phá khoá xe) mặc dù trong vụ án này bị cáo chưa sử dụng vào việc phạm tội, nhưng tai phiên toà bị cáo khai mục đích mang theo để làm công cụ phạm tội (phá khoá xe) trị giá bằng tiền ít và không yêu cầu nhận lại tài sản, do đó HĐXX thấy cần tịch thu tiêu huỷ.
[6] Về án phí HSST: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án phạt tù.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Bàn Văn Q phạm tội Trộm cắp tài sản.
Xử phạt bị cáo 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/02/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu huỷ 02 tay công hình chữ L bằng kim loại màu trắng bạc hiệu Kamusi và 04 đầu tô vít mài dẹt bằng kim loại màu nâu số hiệu PH3X80L dài 0,8cm đựng trong một phong bì thư niêm phong. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 41/BB-GNVC ngày 19/4/2023 giữa Công an huyện Phù Yên và Chi cục THADS huyện Phù Yên) - Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã trả lại tài sản cho bị hại là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS: 26D1-07839 số khung 305667, số máy 1608793 và 01 Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Lan A cho người nhận là Anh Phạm Văn L.
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Bàn Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-ST
Số hiệu: | 44/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về