Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nông Văn V; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 07/7/1997 tại xã ĐP, huyện TK, tỉnh CB.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK, tỉnh CB; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nông Văn Á và bà Hoàng Thị Y (đều đã chết); Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: 02 tiền án, ngày 30/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 04/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 21/01/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng {Có mặt).

- Người bị hại:

1, Hoàng Văn H, sinh năm 1970;

Trú tại: xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK, tỉnh CB (Vắng mặt).

2, Lục Văn Ph, sinh năm 1985;

Trú tại: xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK, tỉnh CB (Vắng mặt).

- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1, Hoàng Văn Ch, sinh năm 1995;

Trú tại: KN, ĐT, TK, CB (Vắng mặt).

2, Nông Thị V, sinh năm 1975;

Trú tại: BG - KK, ĐT, TK, CB (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

1, Lục Văn Ch1, sinh năm 1992;

Trú tại: BN, ĐP, TK, CB(Vắng mặt).

2, Hoàng Văn H1, sinh năm 1993;

Trú tại: HT - GM, ĐT, TK, CB (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nông Văn V, sinh năm 1997, trú tại xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK, tỉnh CB. Trong khoảng tháng 12/2021, Nông Văn V đã thực hiện 02 (hai) vụ trộm cắp tài sản cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 09/12/2021, V đi qua nhà anh Hoàng Văn H, trú tại xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK thấy nhà khóa cửa nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. V đi theo hướng chuồng lợn, trèo qua cửa sổ vào trong nhà trộm được 01 (một) điện thoại Iphone 6s màu trắng và 01 (một) máy bơm nước. Sau đó V đi bộ đến nhà Ch nhờ Ch điều khiển xe máy đi bán các tài sản trộm cắp được, Ch đồng ý và chở V đi bán chiếc điện thoại cho Hoàng Văn H, trú tại xóm HT, xã ĐT, huyện Trùng Khánh được 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Sau đó, V và Ch đi đến xóm L Ph, xã ĐT, huyện TK bán chiếc máy bơm nước cho một người đàn ông không rõ tên và địa chỉ được 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Sau đó, V và Ch đi mua ma túy về sử dụng.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ giữa tháng 12/2021, V một mình vào xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK, thấy nhà ông Lục Văn Ph không có ai ở nhà, V trèo qua khe hở trên tường vào trong nhà lấy trộm được 01 (một) máy xay sát. Sau đó V cùng Ch chở tài sản trộm cắp được đi bán cho bà Nông Thị V trú tại xóm BG- KK, xã ĐT, huyện TK được 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), số tiền có được V và Ch mang đi mua ma túy sử dụng.

Ngày 21/01/2022, Cơ quan chức năng đã tiến hành tạm giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động và 01 (một) máy xay sát để phục vụ công tác điều tra.

Ngày 16/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Tại kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐGTS ngày 21/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Trùng Khánh kết luận, giá trị tại thời điểm trộm cắp của 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 6s, giá 2.776.674 đồng; 01 (một) máy xay sát giá 302.700 đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp được là 3.079.374 đồng; 01 (một) chiếc máy bơm, hình trụ tròn, đã qua sử dụng, do Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng nên không có hình ảnh và thông số để làm căn cứ định giá. Do đó, Hội đồng định giá đã từ chối định giá.

Qua xác minh làm rõ, ngày 18/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh trả lại 01 (một) điện thoại di động cho ông Hoàng Văn H, trả lại 01 (một) máy xay sát cho ông Lục Văn Ph là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cơ quan Điều tra người bị hại anh Hoàng Văn H trình bày: Ngày 09/12/2021, tôi (Hung) phát hiện bị kẻ gian đột nhập vào nhà bị mất trộm 01 (một) máy bơm nước (bơm tóm) thời điểm mua là 1.800.000đồng và 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 6s thời điểm mua là 3.400.000 đồng . số tài sản này tôi đã nhận được 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone 6s, còn chiếc máy bơm chưa nhận được, tôi không yêu cầu bồi thường và đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Anh Lục Văn Ph trình bày: Ngày 11/12/2021 gia đình tôi (Phán) bị mất trộm 01 (một) máy xay sát để ở nhà bếp, máy tôi mua vào năm 2015 với giá là 1.009.000 đồng (Một triệu không trăm linh chín nghìn đồng). Hiện nay tôi đã được Cơ quan điều tra trả lại đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nông Thị V trình bày: Khoảng tháng 12/2021 có một nam thanh niên không biết tên đến hỏi tôi (Vương) có mua máy xay sát không, máy sát nhà cháu không dùng nữa nên bán lại tôi hỏi bán bao nhiêu, V trả lời 500.000 đồng. Sau đó nam thanh niên bảo là máy của nhà thì tôi đồng ý trả 500.000 đồng. Nay tôi không yêu cầu bồi thường gì với số tiền trên.

Anh Hoàng Văn Ch trình bày: tôi (Ch) khoảng tháng 12/2021 có mua với anh Mạc Văn Tư (cùng xóm) 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng, màn hình cảm ứng máy đã qua sử dụng với số tiền 300.000 đồng. Khi mua không biết là tài sản trộm cắp mà có. Nay tôi không yêu cầu bồi thường gì với số tiền trên.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSTK ngàyl4 tháng 4 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh truy tố bị cáo Nông Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Văn V Phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nông Văn V với mức án từ 02 đến 03 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận tại Cơ quan Điều tra bị hại anh Hoàng Văn H đã nhận được 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 6s, còn cái máy bơm nước không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; Anh Lục Văn Ph đã nhận được cái máy xay sát. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nông Thị V, anh Hoàng Văn Ch không yêu cầu đề nghị gì đối với bị cáo nên không xem xét.

Truy thu đối với bị cáo 700.000 đồng là khoản tiền thu lợi bất chính sung công quỹ nhà nước.

Về án phí: Buộc bị cáo Nông Văn V phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trùng Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo Nông Văn V nhận tội được thể hiện như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 09/12/2021, V đi qua nhà anh Hoàng Văn H, trú tại xóm BL - NS, xã ĐP, huyện TK trộm được 01 (một) điện thoại Iphone 6s màu trắng và 01 (một) máy bơm nước. Sau đó V đi bộ đến nhà Ch nhờ Ch điều khiển xe máy đi bán 01 chiếc điện thoại cho Hoàng Văn hóan, trú tại xóm Háng Thoang, xã Đàm Thủy được 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Sau đó, V và Ch đi đến xóm Lũng Phiắc, xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh bán chiếc máy bơm nước cho một người đàn ông không rõ tên và địa chỉ được 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ giữa tháng 12/2021, V một mình vào xóm Bản Luông - Nà Sa, xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, thấy nhà ông Lục Văn Ph lấy trộm được 01 (một) máy xay sát. Sau đó V cùng Ch chở tài sản trộm cắp được đi bán cho bà Nông Thị V trú tại xóm BG - KK, xã ĐT, huyện TK được 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Xét lời khai nhận tội của bị cáo, đã khai tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị hại, lời khai người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Với những căn cứ trên, Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo Nông Văn V đã phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã truy tố đối với bị cáo Nông Văn V là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g. Tái phạm nguy him.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sự hiểu biết pháp luật nhưng do bản thân nghiện ma túy đã bất chấp quy định của pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Cần xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 02 tiền án ngày 30/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 04/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng rèn luyện mình trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội mà còn lao sâu vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế khó khăn. Do vậy, bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tình tiết tăng nặng không có. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định, bản thân nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận tại Cơ quan Điều tra bị hại anh Hoàng Văn H đã nhận được 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 6s, còn cái máy bơm nước không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; Anh Lục Văn Ph đã nhận được cái máy xay sát. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nông Thị V, anh Hoàng Văn Ch không yêu cầu đề nghị gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Truy thu đối với bị cáo 700.000 đồng là khoản tiền thu lợi bất chính sung công quỹ nhà nước.

[V]. Về án phí: Bị cáo Nông Văn V phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nông Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo ng Văn V 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 21/01/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu đề nghị gì đối với bị cáo Hội đồng xét xử không xem xét.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Truy thu đối với bị cáo Nông Văn V số tiền 700.000 đồng là khoản tiền bán tài sản do phạm tội mà có sung công quỹ nhà nước.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/6/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nông Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về