TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 69/2023/QĐST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:
Bùi Long B, sinh năm 2000 tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Ngoan và bà Nguyễn Út L (Nguyễn Thị U, vợ con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: 02 tiền sự - Ngày 04/5/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng, Bên chưa chấp hành quyết định và bỏ đi khỏi địa phương.
- Ngày 05/02/2023 bị Công an xã T ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với mức phạt là 1.500.000 đồng.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/02/2023 cho đến nay. (Có mặt)
- Bị hại: Ông Bùi Văn G, sinh năm 2000. (Có mặt)
Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Út L (Nguyễn Thị U, sinh năm 1970. (Có mặt)
Nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 21/02/2023 Bùi Long B, Bùi Văn G và Nguyễn Văn M cùng đến quán cà phê RuBy ở khóm 3 – thị trấn Cái Nước – huyện Cái Nước – tỉnh Cà Mau để uống cà phê. Tại quán có bố trí khu vực đặt võng cho khách nằm và ngủ lại quán, trước khi ngủ thì anh G lấy điện thoại di động hiệu Iphone 11ProMax màu vàng gold gắn sim số thuê bao 0362383X của mình ra sạc pin và để trên võng cạnh đầu nằm rồi ngủ. Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, Bên thức dậy nhìn thấy Gil và M còn đang ngủ nên nãy sinh ý định lấy trộm điện thoại của anh G để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Bên rút dây sạc điện thoại của anh G rồi lấy điện thoại bỏ vào túi quần và bỏ đi về nhà; sau đó, Bên đem điện thoại cầm cho Đoàn Thanh Đ ở khóm Cái Nước – thị trấn Cái Nước với số tiền 500.000 đồng và đã sử dụng hết vào việc trả nợ và tiêu xài cá nhân.
Đến khoảng 20 giờ ngày 21/02/2023 thì Bên gặp anh G và thừa nhận hành vi lấy trộm điện thoại của mình, anh G đưa cho Bên 500.000 đồng để chuộc lại điện thoại và Bên bị Công an thị trấn Cái Nước mời về làm việc.
Trong quá trình điều tra, Bùi Long B đã thừa nhận hành vi lén lút lấy trộm điện thoại di động hiệu Iphone 11ProMax của anh Bùi Văn G.
Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐ ngày 27/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Cái Nước kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11ProMax màu vàng gold, đã qua sử dụng, giá trị xác định 80%, trị giá 8.000.000 đồng; 01 sim điện thoại của nhà mạng Viettel số 0362383X đang sử dụng, giá trị xác định 100%, trị giá 70.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 8.070.000 đồng.
Vật chứng vụ án gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 ProMax màu vàng gold số seri FCJC90XQN70F, số Imel 363897108800832, có gắn sim điện thoại 0362383X.
Tại bản cáo trạng số: 35/CT-VKS ngày 11 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước truy tố bị cáo Bùi Long B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bên từ 06 đến 09 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đã trả lại cho bị hại nên không đặt ra xử lý. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
- Bị cáo Bùi Long B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố, đồng ý với mức án mà Viện kiểm sát đề nghị và không có ý kiến tranh luận.
- Bị hại Bùi Văn G thống nhất với nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Bên.
- Bà Nguyễn Út L không có ý kiến trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Nước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Bên tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 21/02/2023 tại quán cà phê RuBy ở khóm 3 – thị trấn Cái Nước – huyện Cái Nước – tỉnh Cà Mau trong lúc anh Bùi Văn G đang ngủ, thì Bùi Long B lợi dụng sự thiếu cảnh giác của anh G đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11ProMax màu vàng gold có gắn sim số thuê bao 0362383X với tổng giá trị tài sản mà bị cáo Bên đã chiếm đoạt theo kết luận định giá là 8.070.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Long B đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Do đó, Cáo trạng số: 35/CT-VKS ngày 11 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước truy tố đối với bị cáo Bùi Long B theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng theo quy định pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo Bên là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; hành vi của bị cáo gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; bị cáo có nhân thân xấu, bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc 18 tháng và bị Ủy ban nhân dân xã T ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy. Do đó, cần phải có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, góp phần đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.
- Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa: Bị cáo Bên đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; cha của bị cáo là người có công với cách mạng, được nhà nước cấp chứng nhận thương binh hạng A (3/4, 45%); bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo Bên được các hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi Hội đồng xét xử xem xét lượng hình đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:Vật chứng đã trả lại cho bị hại, nên không đặt ra xử lý.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu xem xét, nên không đặt ra xử lý. [7] Đối với Đoàn Thanh Đ không biết tài sản do Bên lấy trộm nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Bùi Long B, Cơ quan điều tra đã chuyển cho Công an xã T để bổ sung hồ sơ hành chính là có cơ sở.
[8] Ý kiến của Kiểm sát viên là có cơ sở nên được chấp nhận.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Long B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
[10] Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136, Điều 328 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội.
1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Long B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Bùi Long B 05 (năm) tháng 01 (một) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/02/2023. Bị cáo Bên đã chấp hành xong thời hạn tù, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
2. Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã trả lại cho bị hại nên không đặt ra xem xét.
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Long B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
5. Án xử sơ thẩm, những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2023/HS-ST
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về