Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/TLST- HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 28/2022/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2022/HSST – QĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022 đối với:

Bị cáo: Trần Nhật H, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1994 tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: tổ 73, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Trần Chí M và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ ngày 23/12/2021, tạm giam từ ngày 29/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Bị hại: Chị Phan Ngọc A, sinh năm 1992; nơi cư trú: tổ 49A, khu 6A, phường P, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Thế M, sinh năm 1995; nơi cư trú: tổ 6, khu 5, phường Tr , thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18/8/2021, Trần Nhật H đi bộ từ nhà ở tổ 73, khu 8, phường C, thành phố H đến khu vực Quảng trường thuộc phường H1, thành phố H với mục đích tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 15 giờ cùng ngày, khi đến khu vực trước cửa quán cắt tóc “Hugo Barbershop” thuộc tổ 15, khu 2A, phường H1, thành phố H, Ho thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu đen, biển kiểm soát (BKS) 14B1-262.61 của chị Phan Ngọc A (sinh năm: 1992; trú tại: tổ 49A, khu 6A, phường P, thành phố H) dựng trước cửa quán. Quan sát xung quanh không có ai trông coi, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa xe nên Ho nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. Ho tiến lại gần ngồi lên xe, mở khóa xe và nổ máy điều khiển xe đi về hướng Công viên Lán Bè với mục đích tìm chỗ để bán xe vừa trộm cắp được. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Ho điều khiển xe đến cửa hàng mua bán xe mô tô “Trung Hiếu 2” tại số 308C, đường V, phường Ht, thành phố H do anh Trần Thế Ma (sinh năm: 1995; trú tại: tổ 6, khu 5, phường Tr, thành phố H) làm chủ quán để bán chiếc xe trên. Tại đây, Ho nói với anh Ma đây là xe của Ho, giấy tờ Ho sẽ mang đến sau. Anh Ma đồng ý mua với giá 4.000.000đồng (bốn triệu đồng). Trước khi giao tiền anh Ma và Ho đã viết giấy tờ mua bán xe, anh Ma chụp ảnh Ho và thẻ căn cước công dân của Ho. Sau khi bán được xe cho anh Ma, Ho đã lên Hà Nội làm lao động tự do và đã ăn tiêu hết số tiền bán xe do trộm cắp được.

Ngày 19/10/2021, bị hại chị Phan Ngọc A đã có Đơn trình báo gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long về toàn bộ sự việc bị mất cắp.

Ngày 03/11/2021, anh Trần Thế Ma sau khi được biết nguồn gốc chiếc xe đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đen BKS 14B1-262.61 mua của Trần Nhật H cho Cơ quan điều tra.

Ngày 23/12/2021, Trần Nhật H đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long đầu thú.

Tại Kết luận định giá tài sản số 191/KLĐGTS ngày 26/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đen, BKS 14B1-262.61, số khung 3319DY502358, số máy JF33E058250, đăng ký lần đầu ngày 14/5/2014 có giá trị tại thời điểm bị xâm phạm là 9.510.000đồng (chín triệu năm trăm mười nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 26/CT – VKSHL ngày 25/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo Trần Nhật H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và bị cáo đã từng học Đại học Văn hóa, đến năm thứ 3 thì bỏ học, đi làm công việc tự do. Thời gian gần đây do không có việc làm, thu nhập nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để bán đi lấy tiền chi tiêu. Bị cáo thừa nhận bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa.

Bị hại chị Phan Ngọc A trong hồ sơ có lời khai thể hiện: Vào ngày 18/8/2021, chị dựng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu đen, biển kiểm soát (BKS) 14B1-262.61, trước cửa quán cắt tóc “Hugo Barbershop” thuộc tổ 15, khu 2A, phường H1, thành phố H thì bị lấy cắp. Đến nay chị đã nhận lại tài sản mất cắp, không yêu cầu bồi thường gì thêm và chị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (các bút lục 68-69, 74 -77).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Thế Ma trong hồ sơ có lời khai thể hiện: Vào hồi 19 giờ ngày 18/8/2021, có một thanh niên lạ mặt (sau này anh biết tên là Ho) đến cửa hàng anh bán 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu đen, biển kiểm soát (BKS) 14B1-262.61, giấy tờ người thanh niên nói quên ở nhà và mang đến sau. Anh không biết đây là tài sản trộm cắp nên đã đồng ý mua, viết giấy mua bán, chụp ảnh, chụp lại thẻ căn cước của Ho rồi trả cho số tiền mua xe là 4.000.000đồng. Sau khi biết đây là tài sản trộm cắp nên anh đã tự nguyên giao nộp chiếc xe cho Cơ quan điều tra và Ho đã trả lại anh số tiền 4.000.000đồng, anh không có yêu cầu bồi thường gì khác (các bút lục từ 84 -92) Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Nhật H với mức hình phạt từ 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn từ tính từ ngày tạm giữ 23/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xử lý.

Đối với anh Trần Thế M là người đã mua lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu đen, biển kiểm soát (BKS) 14B1-262.61 nhưng anh M không biết đây là tài sản do H trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý.

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát; tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1. Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa liên quan và phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, diễn biến thể hiện trong đoạn video do chị Phan Ngọc A giao nộp, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận định giá tài sản và cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 18/8/2021, tại khu vực tổ 15, khu 2A, phường H1, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Trần Nhật H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đen, BKS 14B1 - 262.61 của chị Phan Ngọc A trị giá 9.510.000 đồng (chín triệu năm trăm mười nghìn đồng).

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi cố ý, lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh truy tố về tội danh và hình phạt đối với bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2. Về hình phạt:

2.2.1. Về hình phạt chính:

- Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn. Tuy nhiên, bị cáo có đầy đủ nhận thức về pháp luật, được gia đình quan tâm, tạo điều kiện cho học tập nhưng bản thân bị cáo không tu chí, lười lao động, lại muốn có tiền để ăn tiêu nên đã bất chấp, vi phạm pháp luật. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đi khỏi địa phương, nơi ở không ổn định, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng và gây tâm lý hoang mang, bất an cho Nhân dân.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại có đơn giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và sau khi trốn khỏi địa phương, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú. Vì vậy, có căn cứ cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã đánh giá ở trên thấy rằng cho dù có xem xét, giảm nhẹ nhưng cần phải áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như nhằm tăng cường phòng ngừa tội phạm chung.

2.2.2. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội “Trộm cắp tài sản” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng (năm triệu đồng) đến 50.000.000đồng (năm mươi triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và bị cáo đã tự thỏa thuận, không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu đen, biển kiểm soát (BKS) 14B1-262.61 đã được cơ quan điều tra công an thành phố Hạ Long trả lại cho bị hại chị Phan Ngọc A theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 31/12/2021 nên không đề cập xử lý.

Ngoài ra, đối với 01 đĩa DVD bên trong chứa 01 đoạn video ghi lại hình ảnh bị cáo Trần Nhật H thực hiện hành vi trộm cắp, do bị hại chị Phan Ngọc A giao nộp là chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử cần lưu giữ trong hồ sơ để làm căn cứ giải quyết vụ án.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm i và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Nhật H phạm tội “Trộm cắp tài sản ”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Nhật H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/12/2021.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23; Danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Trần Nhật H phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về