Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Toà án nhân dân huyện Sìn Hồ mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo: Lò Văn Đ ; tên gọi khác: không; sinh ngày: 08/8/2000 tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: Bản P T 2, xã P T , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Ơ và con bà Lò Thị E m; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: bị cáo có 01 tiền sự. Ngày 29/12/2021 Lò Văn Đ bị Công an xã Hoang Thèn, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu ra Quyết định số 02/QĐ-CAX xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng. Bị cáo chưa chấp hành quyết định xử phạt; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/02/2022, tạm giam từ ngày 23/02/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sìn Hồ., tỉnh Lai Châu, có mặt.

* Người bị hại: anh Vàng A D , sinh ngày 22/8/2006; trú tại bản N T 2, xã P T , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. anh Vàng A S , sinh năm 1958; trú tại bản N T 2, xã P T , huyện S H , tỉnh Lai Châu (đồng thời là người đại diện cho người bị hại). có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. anh Nguyễn Văn L , sinh năm 1989; trú tại bản C Ph , xã P T , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người làm chứng: anh Lò Văn S , sinh năm 1996; trú tại bản P T 2, xã P T , huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 10/02/2022, Lò Văn Đ , sinh ngày 08/8/2000; trú tại bản P T 2, xã P T , huyện Sìn Hồ đi từ nhà ở đến quán Internet Như Quỳnh thuộc bản Pa Tần 2 chơi điện tử. Đợi ngồi chơi được khoảng 05 phút thì thấy Vàng A D sinh ngày 22/8/2006, trú tại bản N T 2, xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ điều khiển xe mô tô đến quán. Do bản thân không có xe nên Đ hỏi mượn xe mô tô của D , mục đích điều khiển về nhà chở thóc mang đi bán lấy tiền tiêu nhưng do phải đi về nên D không cho mượn. Lúc này Đ tiếp tục ngồi chơi được khoảng 02 phút rồi đứng dậy đi ra ngoài. Khi ra đến sân, Đ nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, biển kiểm soát 25B1-528.79 của D dựng trước cửa. Lúc này, Đ nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô của D mang đến huyện Phong Thổ cầm cố lấy tiền tiêu xài. Quan sát xung quanh thấy không có ai để ý, Đ đi đến chiếc xe mô tô, ngồi lên xe tìm cách trộm cắp. Do xe đã khóa, Đ dắt chiếc xe mô tô ra khỏi quán rồi đi theo đường bê tông trong bản P T 2, xã Pa Tần đến cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1989 ở bản C Ph , xã Pa Tần, mục đích để phá khóa xe (khi gần đến hiệu sửa xe thì gặp Lò Văn S , sinh năm 1996 trú cùng bản đang đánh Bida ở một quán cạnh đường, Đ nhờ Say giúp đẩy xe giúp, khi đẩy đến hiệu sửa xe, S tiếp tục đi đánh Bida). Đ nhờ anh L đấu dây điện để nổ máy nhưng anh L nói chiếc xe này không đấu dây điện được mà phải thay ổ khóa với giá 250.000 đồng, Đ đồng ý. Do không có tiền, Đ để lại chiếc xe mô tô và mượn 01 chiếc xe mô tô của anh L đi về nhà lấy tiền để trả cho L thay ổ khóa. Khi đi qua quán Bida, Lò Văn S rủ Đ cùng đi đến xã Chung Chải, huyện Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu tìm mua ma túy sử dụng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Đ và S quay về xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ. Đợi nhờ Say mang chiếc xe mô tô đến trả cho anh Lan rồi đi về. Trả xe xong, Say ra đến quán Bida thì thấy Đ đang ở đó, S nói với Đ là có người đang tìm chú. Lúc này biết hành vi trộm cắp của mình đã bị phát hiện nên Đ bỏ trốn, đến ngày 14/02/2022 Đ ra đầu thú tại Công an huyện Sìn Hồ và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của bản thân.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 18/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, biển kiểm soát: 25B1-528.79 của Vàng A Dìa bị Lò Văn Đ trộm cắp, chiếm đoạt có trị giá 16.080.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 11/CT-VKSSH ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị cáo Lò Văn Đ , về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố đối với bị cáo là không oan, không sai, đúng quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ , phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù; xét thấy bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định (lao động tự do) nên không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, biển kiểm soát 25B1-528.79. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô là tài sản hợp pháp của gia đình ông Vàng A S , sinh năm 1958, trú tại bản N T 2, xã Pa Tần huyện Sìn Hồ (bố đẻ Vàng A D ). Căn cứ đơn đề nghị của ông Sìa, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, ngày 07/3/2022 Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Vàng A S nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại; đại diện cho người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Người bị hại, đại diện người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trách nhiệm hình sự giải quyết theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với nội dung hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 14 giờ ngày 10/02/2022, quán Internet Như Quỳnh thuộc bản Pa Tần 2, xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, bị cáo Lò Văn Đ đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, biển kiểm soát 25B1-528.79, trị giá 16.080.000 đồng của anh Vàng A D , sinh ngày 22/8/2006, trú tại bản N T 2, xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ, mục đích mang đến huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu cầm cố lấy tiền tiêu xài.

Bị cáo Lò Văn Đ là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác; làm ảnh hưởng đến hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ. Bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma tuý, ham hưởng thụ, không chịu lao động sản xuất, bằng thủ đoạn lợi dụng lúc vắng người và sự mất cảnh giác, sơ hở từ việc bảo vệ tài sản của chủ sở hữu bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản một chiếc xe mô tô 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, biển kiểm soát 25B1-528.79, trị giá 16.080.000 đồng của anh Vàng A D với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Do đó, lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và áp dụng khoản 1 điều 173, Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lò Văn Đ từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên cần được chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người nghiện ma túy, hơn nữa ngày 29/12/2021 Lò Văn Đ bị Công an xã Hoang Thèn, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, bị cáo chưa chấp hành quyết định xử phạt nêu trên.

[4] Về tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sua khi hành vi trộm cắp tài sản của bản thân bị phát hiện, bị cáo đã tự giác đến trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ra đầu thú. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định theo quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có công ăn việc làm ổn định, bị cáo không làm việc trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp nên không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, biển kiểm soát 25B1-528.79. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô là tài sản hợp pháp của gia đình ông Vàng A S , sinh năm 1958, trú tại bản N T 2, xã Pa Tần huyện Sìn Hồ (bố đẻ Vàng A D ). Căn cứ đơn đề nghị của ông Sìa, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, ngày 07/3/2022 Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Vàng A S nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại; đại diện cho người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lò Văn Đ là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại, đại diện người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

[10] Về biện pháp ngăn chặn: Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[11] Về trách nhiệm của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú và những người liên quan:

Đối với Lò Văn S là người giúp Lò Văn Đ đẩy chiếc xe mô tô trộm cắp, Nguyễn Văn Lan là người thay khóa xe mô tô. Quá trình điều tra xác định Say, Lan đều không biết chiếc xe mô tô do Lò Văn Đ trộm cắp mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Lò Văn S , Nguyễn Văn L là đúng quy định.

Thông qua vụ án này, đề nghị các cấp chính quyền địa phương cần nâng cao tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân; có biện pháp phòng ngừng, tăng cường đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội trên địa bàn; quản lý chặt chẽ nhân hộ khẩu trên địa bàn, cảnh giác đề phòng bảo vệ tài sản trên địa bàn và có các biện pháp bảo vệ giữ gìn trật tự an ninh xã hội.

Đối với người dân cần nâng cao ý thức cảnh giác, đề phòng và tự chủ động quản lý và bảo vệ tài sản của mình không tạo sự sơ hở để kẻ gian lợi dụng trộm cắp. Nếu phát hiện có đối tượng nghi vấn cần báo ngay cho cơ quan Công an gần nhất để có biện pháp phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm trên địa bàn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; các Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh:

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ : 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 14 / 02/ 2022).

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

4. Về Trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

5. Về Xử lý vật chứng: Không xem xét giải quyết.

6. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30 tháng 5 năm 2022); Người bị hại, người đại diện cho người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về