Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HS ngày 11/6/2021, đối với bị cáo:

Hà Văn Q; Sinh ngày: 16/6/1987 tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: thôn Luống Đồng, xã Hóa Q, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông: Hà Văn M và bà: Lê Thị Th; Có vợ là: Mai Thị H1 và có 01 con nhỏ sinh năm: 2016; Tiền án, Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 23/8/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích); Ngày 13/6/2012 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 40 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích); bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/3/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Như Xuân đến cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Lý Thị H; Sinh năm: 1988; Địa chỉ: thôn Đồng Xuân, xã Hóa Q, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1) Anh: Trần Văn L; Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Tiểu khu Nam Tiến, thị trấn Nông C, huyện Nông C, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

2) Anh: Mã Văn T; Sinh năm: 1996; Địa chỉ: thôn Đồng Tài, xã Vạn Thắng, huyện Nông C, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân nhận được tin báo của chị Lý Thị H về việc: “Sau khi thức dậy vào sáng ngày 18/3/2021, chị H phát hiện gia đình chị bị kẻ gian đột nhập lấy trộm tài sản gồm: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Acer màu đen; 01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh; 01 điện thoại HTC 10 Evo màu đen và 01 túi xách bên trong có số tiền 2.700.000 đồng và 01 bằng lái xe để trong cốp xe máy”.

Ngày 20/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân đã triệu tập đối tượng Hà Văn Q ở thôn Luống Đồng, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa đến làm việc thì Q đã xin đầu thú và khai nhận diễn biến hành vi trộm cắp tài sản nhà chị Lý Thị H như sau:

Vào khoảng 01 giờ 35 phút ngày 18/3/2021, H Văn Q đi xe gắn máy nhãn hiều Supper Cúp BKS 36A 95671 vào khu vực nhà văn hóa thôn Thanh Xuân, xã Hóa Q, huyện Như Xuân để đi bắt ếch. Q nhìn sang nhà chị Lý Thị H (ở bên cạnh nhà văn hóa thôn) thấy cửa phòng ngủ nhà chị H mở hé nên đã nãy sinh ý định đột nhập vào nhà chị H để trộm cắp tài sản. Q để xe gắn máy ở sau nhà văn hóa thôn đi sau nhà văn hóa, qua phía sau nhà chị H, đi vào phía sau nhà chị H qua khe tường giữa hai nhà. Sau đó, Q quan sát thấy gia đình chị H và hàng xóm đã ngủ hết nên Q đi vào trong phòng ngủ nhà chị H để trộm cắp tài sản. Vào trong phòng ngủ, Q đi lại đầu giường thì phát hiện thấy 02 chiếc điện thoại di động (01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh; 01 điện thoại HTC 10 Evo màu đen) Q lấy và bỏ vào túi quần, tiếp theo Q phát hiện 01 ba lô đựng laptop (bên trong có mát laptop) để dưới sàn nhà nên đã lấy trộm luôn. Q phát hiện một chùm chìa khóa để ở bàn gần giường ngủ, Q cầm chùm chìa khóa và đi lại vị trí để xe mô tô của gia đình chị H ở phía trước phong ngủ, mở cốp xe và lấy thêm được 01 túi xách màu đen, Q kiểm tra thì phát hiện bên trong túi xách có số tiền 2.700.000 đồng, Q bỏ điện thoại, túi xách vào ba lô laptop rồi đi ra khỏi nhà chị H, ra nhà văn hóa thôn lấy xe máy và đi thẳng về nhà mình. Đến trưa ngày 18/3/2021, Q một mình đi xe gắn máy BKS 36A 95671 mang theo 01 chiếc điện thoại và chiếc laptop lấy trộm được của gia đình chị H đến địa bàn huyện Nông C để bán. Q đem chiếc điện thoại Samsung và máy laptop đến cửa hàng điện thoại Hoàng Lan ở tiểu khu Nam Tiến, thị trấn Nông C, huyện Nông C, tỉnh Thanh Hóa do anh Trần Văn L là chủ cửa hàng, Q hỏi anh L có mua điện thoại và laptop cũ không? Do không thấy có mật khẩu và Q cũng không nói với anh L tài sản là do trộm cắp mà có nên anh L đã đồng ý mua 01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh và 01 máy laptop Acer với tổng số tiền là 8.000.000 đồng (Laptop Acer giá là 2.000.000 đồng, điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh giá là 6.000.000 đồng), tiếp đó Q tìm đến quán điện thoại Tài Lọc Mobile ở thôn Đồng Tài, xã Vạn Thắng, huyện Nông C, chủ cửa hàng là anh Mã Văn T để hỏi phá khóa chiện điện toại HTC nhưng anh T nói mất thời gian 1 đến 2 tiếng nên Q hỏi bán điện thoại luôn cho anh T, Q nói với anh T là điện thoại lâu không sử dụng nên quên mật khẩu và không nói với anh T là tài sản do trộm cắp nên anh T chấp nhận mua chiếc điện thoại HTC với giá 350.000 đồng. Sau khi bán các tài sản trộm cắp được của gia đình chị H được 8.350.000 đồng và số tiền 2.700.000 đồng trong túi xách, tổng cộng là 11.050.000 đồng, Q sử dụng tiền để chi tiêu cá nhân và đánh lô đề, trong đó 02 ngày (ngày 18 và 19/3/2021), mỗi ngày hết 1.500.000 đồng, số tiền còn lại Q cất giấu trong thùng catton dưới gần bếp ga trong nhà bếp của Q.

Lời khai báo của Hà Văn Q phù hợp với lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận số 11/KL-ĐGTS, ngày 23/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản của Ủy ban nhân dân huyện Như Xuân kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Acer màu đen; 01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh; 01 điện thoại HTC 10 Evo màu đen mà Hà Văn Q đã trộm cắp tại gia đình chị H ngày 18/3/2021 có tổng giá trị là 23.837.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 23/CT-VKSNX ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân truy tố bị cáo Hà Văn Q, về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Hà Văn Q từ 21 tháng tù đến 27 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng khoản 5 Điều 174 BLHS làm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về phần bồi thường trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm trả lại cho bị hại Lý Thị H số tiền 2.700.000 đồng; trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L số tiền 8.000.000 đồng, anh Mã Văn T số tiền 350.000 đồng.

- Về án phí: Bị cáo phải chị án phí theo quy định của pháp luật. Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận bổ sung gì.

Quan điểm đối đáp của đại diện viện kiểm sát: Giữ nguyên như đã trình bày.

Lời nói sau cùng, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Như Xuân, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy đinh của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội, cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 01 giờ 35 phút ngày 18/3/2021, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của gia đình chị Lý Thị H ở thôn Đồng Xuân, xã Hóa Q, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Hà Văn Q đã đột nhập vào nhà chị H lén lút trộm cắp 01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh; 01 điện thoại HTC 10 Evo màu đen, 01 máy laptop nhãn hiệu Acer màu đen và 01 túi xách trong đó có 2.700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Hà Văn Q đã trộm cắp được của gia đình chị Lý Thị H là 26.537.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo H Văn Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi và hậu quả thấy rằng: Đây là vụ án xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây thiệt hại kinh tế cho người khác, gây mất trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm đối với bị cáo để trừng trị và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa và giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo Hà Văn Q không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 23/8/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích); Ngày 13/6/2012 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 40 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích. Lẽ ra sau những lần phạm tội trước, bị cáo phải nhận thức được lỗi lầm của mình để cố gắng cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới, điều đó chứng tỏ sự liều lĩnh cũng như coi thường pháp luật của bị cáo nên Hội đồng xét xử cần lên cho bị cáo một mức hình phạt nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS là phù hợp. Từ sự phân tích, cá thể hóa về nhân thân, trách nhiệm hình sự của bị cáo; căn cứ vào tính chất vụ án và mức độ hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo là cần thiết.

[5] Về phần bồi thường trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 28 BLTTHS; Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ vào yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại, tại phiên tòa gia đình bị cáo đã bồi thường cho chị Lý Thị H số tiền 2.700.000 đồng và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Mã Văn T số tiền 350.000 đồng; bị cáo còn phải bồi thường cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L số tiền 8.000.000 đồng; (đây là số tiền bị cáo bán các tài sản đã trộm cắp được cho anh L và anh T, hiện nay toàn bộ tài sản này đã được thu giữ và trả lại cho bị hại là chị H). HĐXX xét thấy yêu cầu của anh L là chính đáng nên chấp nhận. Buộc bị cáo Hà Văn Q phải có trách nhiệm bồi thương cho anh Trần Văn L; Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Tiểu khu Nam Tiến, thị trấn Nông C, huyện Nông C, tỉnh Thanh Hóa số tiền là 8.000.000 đồng;

- Đối với 01 túi xách màu đen; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên chị Lý Thị H; 01 ví nữ nắp gấp, khóa bằng nam châm mà bị cáo Q trộm cắp nhà chị H ngày 18/3/2021. Hà Văn Q khai báo, khi đem tài sản trộm cắp đi tiêu thụ, khi trở về bị cáo đã ném ở dọc đường khu vực dốc Chay, khi phố Cát Tiến, thị trấn Yên Cát. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân đã tiến hành thông báo truy tìm nhưng chưa có kết quả và người bị hại cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét về phần vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy 10 plus màu xanh số IMEI1 3546252106944400, IMEI2 354653106844408; 01 điện thoại HTC 10 Evo màu đen số IMEI 351704090041015 và 01 máy laptop nhãn hiệu Acer màu đen (kèm theo 01 ba lô đựng và 01 chuột máy vi tính), dưới cạnh màn hình có chữ ASPIRE, dưới thân máy có dãy số Seri: S/N NXHE3SV00G03901B8C2NOO, ANID 039007052223 và 01 chuột máy tính nhãn hiệu ZADEZ màu đỏ, tình trang hoạt động bình thường, là những tài sản mà Hà Văn Q đã trộm cắp của gia đình chị Lý Thị H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân đã trả lại cho chủ sở hữu, chị Lý Thị H theo quy định là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với số tiền 5.300.000 đồng thu giữ tại nhà Hà Văn Q đã được chuyển vào tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân số 3949.0.1053933 tại Kho bạc Nhà nước huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là số tiền do Q phạm tội mà có nên cần giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án của bị cáo.

- Đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiều Supper Cúp BKS 36A 95671 mà Hà Văn Q sử dụng khi đi trộm cắp tài sản của gia đình chị Lý Thị H. Qua điều tra, xác minh có căn cứ đây là xe máy Hà Văn Q mượn của bố đẻ là ông Hà Văn Mùi, khi sử dụng vào việc phạm tội ông Mùi không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân không thu giữ là phù hợp.

- Đối với 01 túi xách màu đen; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên chị Lý Thị Hà; 01 ví nữ nắp gấp, khóa bằng nam châm mà bị cáo Q trộm cắp nhà chị H ngày 18/3/2021. Hà Văn Q khai báo, khi đem tài sản trộm cắp đi tiêu thụ, khi trở về bị cáo đã ném ở dọc đường khu vực dốc Chay, khi phố Cát Tiến, thị trấn Yên Cát. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân đã tiến hành thông báo truy tìm nhưng chưa có kết quả, Hội đồng xét xử đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục truy tìm, nếu có kết quả thì trả lại cho bị hại là chị Lý Thị H.

[7] Về phần hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết áp dụng khoản 5 Điều 173 BLHS làm hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với hành vi Hà Văn Q khai báo đã sử dụng số tiền phạm tội vào việc đánh lô, đề trong 02 ngày (ngày 18, 19/3/2021), mỗi ngày 1.500.000 đồng, đánh với anh Lê Đình Xang ở thôn Luống Đồng, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, anh Xang không thừa nhận có mua bán số lô, số đề nào với Hà Văn Q và bị cáo Q cũng chỉ khai báo việc đánh lô, đánh đề với anh Xang bằng hình thức thỏa thuận miệng với nhau, không thông qua điện thoại, không ghi các lô, các đề với nhau nên Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân không đủ căn cứ để xử lý Hà Văn Q và anh Lê Đình Xang về hành vi đánh bạc là phù hợp.

Đối với anh Mã Văn T và anh Trần Văn L, là những người đã mua tài sản do Q phạm tội mà có, nhưng không biết số tài sản đó là do Q trộm cắp nên Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân không xử lý trách nhiệm pháp lý đối với anh T và anh L là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí; Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn Q, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: bị cáo Hà Văn Q 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: ngày 20/3/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 28 Bộ luật tố tụng Hình sự  (BLTTHS); Điều 353; 357; 360; 468; 584; 585; 586; 587 và Điều 589 BLDS năm 2015.

Buộc bị cáo Hà Văn Q phải có trách nhiệm bồi thương cho anh Trần Văn L; Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Tiểu khu Nam Tiến, thị trấn Nông C, huyện Nông C, tỉnh Thanh Hóa số tiền là 8.000.000 đồng; Phương thức bồi thường một lần, kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Về phần án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 99 BLTTHS; Điều 6, 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Hà Văn Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST và 400.000 đồng tiền án phí dân sự có giá ngạch.

Trường hợp bản án, quyết định được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai. Có mặt bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Mã Văn T; vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Mã Văn T có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
  • Tên bản án:
    Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2021/HS-ST
  • Số hiệu:
    40/2021/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    25/06/2021
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2021/HS-ST

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về