Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 07 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Phan Thị Ph, sinh năm 1986 tại tỉnh Phú Yên; hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; nơi ở hiện nay: Thôn 1, xã T, huyện C, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đắc Th, sinh năm 1954 và bà Lưu Thị L, sinh năm 1957, hiện sinh sống tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; chồng là Huỳnh Nhật T, sinh năm 1978, bị cáo có 06 người con con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án:

01 tiền án, cụ thể: Tại Bản án số: 80/2019/HS-PT ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành án; tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú – bị cáo có mặt;

- Bị hại: Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1964 – vắng mặt;

Địa chỉ: Bon U 1, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 03/4/2023 sau khi chở con đến trường học, Phan Thị Ph (có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát:

48AE – 019.92 đến quán tạp hóa của bà Trần Thị Kim H, tại Bon U, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đ mua hàng tạp hóa, khi đi vào trong quán Ph thấy bà H ngồi ở bàn tính tiền nơi cửa ra vào, Ph đi vào trong kệ trưng bày hàng tạp hóa và đi đến kệ trưng bày các loại sữa, thấy trong quán không có người, bà H không để ý nên Ph nảy sinh ý định lấy trộm sữa, Ph lấy 02 lốc sữa, (mỗi lốc có 04 hộp, loại thể tích 110ml/01 hộp), nhãn hiệu GROW PLUS bỏ vào trong lưng quần dấu trong người. Tiếp đó Ph cầm trên tay 01 lốc sữa khác và 01 hộp bánh để ra tính tiền. Ph chưa kịp đi ra chỗ tính tiền thì bà H đã đến kiểm tra trong người Ph và phát hiện 02 lốc sữa Ph giấu trong người nên đã báo Công an thị trấn E, huyện C đến lập biên bản tiếp nhận người bị bắt quả tang, thu giữ 02 lốc sữa Phận trộm cắp.

Bản kết luận định giá tài sản số 29/KL – HĐĐG ngày 07/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, kết luận: 01 (một) lốc sữa có 04 hộp, màu đỏ, nhãn hiệu GROW PLUS, thể tích 110 ml, hạn sử dụng đến ngày 06/5/2023, chưa qua sử dụng có giá trị tại thời điểm xâm hại ngày 03/4/2023 là:

28.000 đồng; 01 (một) lốc sữa có 04 hộp, màu xanh nước biển, nhãn hiệu GROW PLUS thể tích 110 ml, hạn sử dụng đến 06/8/2023, chưa qua sử dụng có giá trị tại thời điểm xâm hại ngày 03/4/2023 là 24.000 đồng. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm xâm phạm là 52.000 đồng (Năm mươi hai nghìn đồng).

Cơ quan điều tra thu giữ những vật chứng sau:

01 (một) lốc sữa màu đỏ và 01 (một) lốc sữa màu xanh nước biển (loại 01 lốc có 04 hộp), nhãn hiệu GROW PLUS, thể tích 110ml/01 hộp, chưa qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định được: 02 (hai) lốc sữa có đặc điểm như trên là tài sản của bà Trần Thị Kim H. Ngày 08/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra quyết định xử lý vật chứng số 54, trả lại 02 (hai) lốc sữa trên cho bà H là chủ sở hữu hợp pháp.

Bản Cáo trạng số 39/CTr-VKS ngày 19/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Phan Thị Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan Thị Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2, Điều 51, khoản 3 Điều 54; khoản 1, Điều 56 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 03 tháng đến 04 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm tù tại bản án số 80/2019/HS-PT ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 01 năm 03 tháng đến 01 năm 04 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 46; khoản 2, Điều 47 BLHS;

điểm b, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sư:

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện C ra quyết định xử lý vật chứng trả: 01 lốc sữa màu đỏ và 01 lốc sữa màu xanh nước biển (loại 01 lốc có 04 hộp), nhãn hiệu GROW PLUS, chưa qua sử dụng cho bà H là chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Kim H không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện C, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 03/4/2023, tại Bon U, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đ, Phan Thị Ph đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 lốc sữa (loại 01 lốc 04 hộp) nhãn hiệu GROW PLUS với tổng giá trị tài sản là 52.000 đồng của bà Trần Thị Kim H, do bị cáo có tiền án về tội trộm cắp tài sản và chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 của BLHS. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a)… b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

…” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Đ truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và nhân thân của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức về hành vi trộm cắp tài sản của người khác là phạm pháp. Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng, sửa chữa bản thân, lao động chân chính mà lại thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện bản chất coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo, giáo dục thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và tài sản chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại (giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 52.000 đồng), bị cáo có nhiều con trong đó có 02 con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy, bị cáo có đủ điều kiện được các hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên HĐXX cần xử áp dụng Điều 54 Bộ Luật hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt. Bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước để cải tạo tốt thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 46; khoản 2, Điều 47 BLHS; điểm b, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện C ra quyết định xử lý vật chứng trả: 01 lốc sữa màu đỏ và 01 lốc sữa màu xanh nước biển (loại 01 lốc có 04 hộp), nhãn hiệu GROW PLUS, chưa qua sử dụng cho bà H là chủ sở hữu hợp pháp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Kim H không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đề cập xử lý.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Phan Thị Ph phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

[1]. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Thị Ph 03 (Ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm tù tại bản án số 80/2019/HS-PT ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Phan Thị Ph phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

[2]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 46; khoản 2, Điều 47 BLHS; điểm b, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự :

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 lốc sữa màu đỏ và 01 lốc sữa màu xanh nước biển (loại 01 lốc có 04 hộp), nhãn hiệu GROW PLUS thể tích 110 ml/hộp, chưa qua sử dụng cho bà Trần Thị Kim H là chủ sở hữu hợp pháp.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Kim H không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phan Thị Ph phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về