Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2023/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh ngày 23 tháng 9 năm 2000; tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng T, sinh năm 1967 và bà Tô Thị N, sinh năm 1968; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự, tiền án: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14-02-2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình - có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1. Ông Tô Văn P sinh năm 1938; nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Anh Trần Nam C1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

* Những người làm chứng:

3.1. Anh Thái Anh V, sinh năm 1978; Nơi cư trú: TDP Đ, thị trấn H1, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

3.2. Ông Tô Văn C2, sinh năm 1936; Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 12-02-2023, Nguyễn Thanh T đi bộ trên đường, mục đích xem có ai sơ hở trong việc quản lý tài sản để trộm cắp, bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Trên đường đi, T nhìn thấy khu vực cổng nhà ông Tô Văn C2 ở thôn H, xã C, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình có 01 chiếc xe đạp mini màu xanh đen, có giỏ sắt, trong giỏ có 01 chiếc mũ cối màu xanh của ông Tô Văn P ở cùng thôn. Quan sát thấy không có người trông coi, T đã trộm cắp và điều khiển xe đạp trên đi tìm nơi để bán. Khi đi đến địa phận thôn L, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, T nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, xám, đen, biển kiểm soát 27F8-X ; trên xe có lắp giá chở hàng bằng kim loại của anh Trần Nam C1 ở thôn L, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để ở cạnh đường, trước cửa nhà, trên xe cẫn cắm chìa khóa điện nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên. T đạp xe gần xe mô tô, quan sát không thấy có người trông coi, T để xe đạp ở đó, dùng tay mở khóa điện, khởi động và điều khiển xe mô tô trên đi tìm chỗ bán nhưng chưa bán được. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày T điều khiển xe mô tô trộm cắp được đến hát Karaoke tại quán “Tuyết V” của anh Thái Anh V ở thị trấn H1, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đến khoảng 19 giờ 30 phút, T không hát nữa và thanh toán hết 2.239.000 đồng, do không có tiền trả, T nói với anh V cho để lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, xám, đen, biển kiểm soát 27F8-X , anh V hỏi giấy tờ xe thì T nói không có. Anh V thấy chiếc xe có đặc điểm giống chiếc xe bị mất trộm mà anh thấy được ở bài đăng trên mạng xã hội Facebook nên đã từ chối và báo Công an thị trấn H1 và Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để giải quyết.

Bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 13-02-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, xám, đen, biển kiểm soát 27F8-X  đã qua sử dụng, tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 4.000.000 đồng; 01 giá để hàng tự chế bằng kim loại đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 4.500.000 đồng.

Bản kết luận định giá tài sản số 02 ngày 13-02-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà kết luận: 01 chiếc xe đạp mini Nhật, màu xanh đen, đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 500.000 đồng; 01 chiếc mũ cối màu xanh đã qua sử dụng, tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 550.000 đồng.

Bản cáo trạng số 35/CT-KSHH, ngày 19-04-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Thanh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố tại phiên tòa khẳng định quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 09 tháng đến 01 năm tù; về trách nhiệm bồi thường: Không đặt ra giải quyết. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị hại và những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra những người này đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Thanh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Đơn trình báo, bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người bị hại anh Trần Nam C1 và ông Tô Văn P; Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 13-02-2023; Bản kết luận định giá tài sản số 01 và số 02 ngày 13-02-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng ông Tô Văn C2 và anh Thái Anh V cùng các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Ngày 12-02-2023, tại thôn H, xã C và thôn L, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo Nguyễn Thanh T có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe đạp mini Nhật màu xanh đen, có giỏ sắt có trị giá 500.000 đồng và 01 chiếc mũ cối màu xanh trị giá 50.000 đồng của ông Tô Văn P; trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ xám đen, biển số 27F8- X  trị giá 4.000.000 đồng, trên xe có lắp giá chở hàng bằng kim loại trị giá 500.000 đồng của anh Trần Nam C1. Tổng giá trị tài sản bị cáo Nguyễn Thanh T trộm cắp của ông P và anh C1 là 5.050.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thanh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định như sau:

Điều 173: Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

.....;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo Nguyễn Thanh T thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân và gây ảnh hưởng đến trật tự trị an khu vực xảy ra tội phạm.

[5] Về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần Đ và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Từ những nhận xét trên, HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù theo quy định của khung hình phạt, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và có tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Bị không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm bồi thường: Trong quá trình điều tra, những người bị hại anh Trần Nam C1 và ông Tô Văn P đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường. Anh Thái Anh V là chủ quán hát Karaoke Tuyết V không yêu cầu bị cáo phải trả số tiền hát 2.239.000 đồng. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thu giữ và quản lý 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xám đỏ đen, biển số 27F8-X , 01 giá để hàng tự chế bằng kim loại đều đã qua sử dụng của anh C1; thu giữ và quản lý 01 chiếc xe mini Nhật, màu xanh đen, 01 chiếc mũ cối màu xanh đều đã qua sử dụng của ông P. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh C1 và của ông P nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hưng Hà đã trả lại cho ông P và anh C1 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tình từ ngày bắt tạm giam 14-02-2023.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Nam C1 và ông Tô Văn P vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về